Hiển thị các bài đăng có nhãn hoài niệm. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn hoài niệm. Hiển thị tất cả bài đăng

21/7/11

NHỚ THƯƠNG LÁ CHUỐI



Nhớ hồi bé, tiền quà thường thì bọn trẻ chúng tôi hay mua xôi, bắp nấu hay khoai để ăn cho no, cho chắc bụng trước khi đến lớp. Ấy vậy mà nhớ, mà thương da diết đến nao lòng những gói xôi, gói bắp xinh xắn của một thời ấu thơ.

Bắp nấu, xôi, đậu phộng luộc... thường thì được gói bằng lá chuối tươi, giản tiện mà nồng ấm hương quê. Ăn bắp nấu thú vị nhất là trên miếng lá chuối tươi xanh còn thơm những giọt nước mát, phảng phất mùi nhựa non nõn, rồi ta cầm cái que bằng sóng dừa - được người bán chuốt, cắt gọn ghẽ - và một miếng ngon lành làm sao. Còn xôi thì bao giờ chúng tôi cũng dùng đôi tay bóp nó chặt lại với miếng lá chuối, nghe nong nóng, deo dẻo bàn tay ngoan... Những miếng lá chuối hay cái que dùng để đưa bắp vào miệng sau đó được cho vào sọt rác và chúng dễ phân hủy vô cùng!

Xôi nếp bây giờ được gói bằng một cái bọc ni-lông mong mỏng. Cái que bằng sóng dừa, miếng lá chuối tươi non đựng quà biến mất hẳn. Đâu đó tôi nghe có người bảo: “Những que sóng dừa, lá chuối tươi không đảm bảo vệ sinh và thấy quê quê sao ấy!”. Thế là bọc ni-lông, ly nhựa lên ngôi cùng hậu quả cũng thật kinh hoàng! Lũ học trò vứt những cái vật dụng “văn minh” ấy tùy tiện không biết đến khi nào phân hủy.

Chợt nghe thằng cháu đang ê a đọc bài, có một đoạn làm tôi rất chú ý: “Theo các nhà khoa học, bao bì ni-lông lẫn vào đất làm cản trở quá trình sinh trưởng của các loài thực vật bị nó bao quanh, cản trở sự phát triển của cỏ dẫn đến hiện tượng xói mòn ở các vùng đồi núi. Bao bì ni-lông bị vứt xuống cống làm tắc các đường dẫn nước thải, làm tăng khả năng ngập lụt của các đô thị về mùa mưa. Sự tắc nghẽn hệ thống cống rãnh làm cho muỗi phát sinh, lây truyền dịch bệnh. Bao bì ni-lông trôi ra biển làm chết các sinh vật khi chúng nuốt phải. Đặc biệt bao bì ni-lông màu đựng thực phẩm làm ô nhiễm thực phẩm do chứa các kim loại như chì, ca-đi-ni gây tác hại cho não và là nguyên nhân gây ung thư phổi...”.

Nghe thế, tôi bỗng nhớ thương lá chuối vô cùng, thương không chỉ vì môi trường mà còn vì những kỷ niệm...

TRẦN HUY MINH PHƯƠNG

Nguồn:
Nhớ thương lá chuối



18/5/11

ĐI QUA NỖI NHỚ...



Post giúp một người bạn không có blog...

...Tôi đi qua nỗi nhớ nước Anh bằng sự ám ảnh về tiếng đàn piano của người nghệ sĩ đường phố. Trong một ngày đông lạnh giá với làn không khí nhẹ bẫng, trong suốt, vấn vít vài sợi nắng, tiếng đàn thánh thót cứ vương vào tim tôi một nỗi đau mơ hồ, nhè nhẹ. Người nghệ sĩ già ngả mình đàn, đàn mãi và cảm xúc tuôn trào trên mỗi ngón tay ông đã làm bao con tim khách vãng lai thổn thức.

Cả vùng không gian dường như rộng ra, sâu hơn và thời gian như lắng lại, từng giọt, từng giọt…


Ấy là tiếng đàn tôi đã nghe ở York, thành phố nhỏ cổ kính mộng mơ. Khi đó, tôi đã biết, không gian này, tiếng đàn này sẽ gieo vào lòng tôi nỗi nhớ khi vô tình, nó chạm vào nỗi cô đơn êm dịu trong tôi.

Nếu có dịp đi qua nhiều thành phố của nước Anh, người ta dễ dàng bắt gặp hình ảnh những nghệ sĩ đứng biểu diễn nhiệt tình và say sưa trên đường phố và đó đã trở thành một phần hình ảnh của đất nước này… Không phải lần đầu tiên đón năm mới nơi đất khách nhưng Noel ở London, dù ông già Tuyết có hiện diện ít hơn so với một số nước châu Âu khác nhưng những bản nhạc vui nhộn được tấu lên bởi các nghệ sĩ đường phố đã làm vui chân khách vãng lai khi đón năm mới nơi xứ lạ.

Đường phố London càng lúc càng vắng khi đồng hồ nhích dần đến con số 12. Người đi lại lúc này hầu như chỉ là khách ngoại quốc bởi Noel là dịp sum họp gia đình. Và chúng tôi dường như là những người khách cuối cùng rời bến tàu điện ngầm. Những người bản xứ còn đủ bình tĩnh nán lại không ai khác, chính là những người nghệ sĩ đường phố và một trong những nơi được họ chọn biểu diễn nhiều nhất là các bến tàu điện ngầm.

Trong thanh âm rộn ràng đón chào năm mới, chợt tiếng violin réo rắt ở một góc underground làm tôi dừng bước. Tiếng violin gợi buồn về kỷ niệm, về chốn xưa khiến tôi rưng rưng nhớ nhà. Lẳng lặng bỏ vài đồng xu vào chiếc mũ, tôi nhìn người nghệ sĩ mỉm cười và ông cũng nhìn tôi, cười thân thiện. Ở xứ lạ, giữa hai con người xa lạ nhưng trong một khoảng khắc ngắn ngủi, âm nhạc đã là một sợi dây kết nối cảm xúc vô hình…

Vâng, tôi nhớ nước Anh, nhớ Endinburgh... Tôi là người may mắn vì được có mặt, có thể, chỉ là một lần duy nhất, đắm mình trong không gian mê hoặc nửa hư nửa thực của thủ đô Scotland. Vẫn còn đây, cảm giác huyền hoặc khi vào thăm lâu đài cổ Endinburgh, vẫn còn đây, trên môi, ngất ngây hương vị Scotch whisky nồng say, và vẫn còn đây, cảm giác phiêu bồng khi vừa thả bước trên những con đường lát đá vừa lắng nghe tiếng kèn dìu dặt của những người nghệ sĩ mặc váy Scotland đứng say sưa biểu diễn ở các con phố cổ.

Chính họ là người giới thiệu tuyệt vời cho nét văn hoá đặc sắc của Scotland và làm tròn đầy thêm cảm giác đây là một chốn riêng đặc biệt của thế giới, chỉ đến nơi này mới có, riêng Scotland mới có.


Âm nhạc đường phố cũng là một trong rất nhiều âm thanh quen thuộc của đời sống hàng ngày ở thành phố Bristol. Trong những hôm mưa lạnh ẩm ướt hay những ngày đẹp trời, nắng vàng rực rỡ, tiếng nhạc len lỏi vào tâm tư xúc cảm và như những sợi dây rất mảnh, kéo tôi gần hơn đến với tâm hồn nước Anh: dù buồn, vui, dù đau đớn nhớ nhung hay hân hoan hạnh phúc thì mình hãy sống trọn vẹn giây phút ấy, là chính mình giây phút ấy, chẳng có gì phải âu lo.

Những bản nhạc được tấu lên như vốn dĩ tự nhiên vẫn là như thế nhưng đó lại là tiếng lòng yêu đời thiết tha của người nghệ sĩ dù cho cuộc sống có khó khăn… Phải thế chăng mà nó ám ảnh, nó trở thành nỗi nhớ mơ hồ nhưng dai dẳng trong tôi.

Những đêm không ngủ, trong thinh không tĩnh mịch, nghe tiếng piano của ai từ xa vọng lại, lòng chợt se thắt trong một cảm giác thân thuộc mà biết rằng nó đã xa xôi…

BONUS:




16/4/11

ĐỐM LỬA ĐỜI NGƯỜI



TRUNG TRUNG ĐỈNH

Thuở thiếu thời, thỉnh thoảng mẹ lại sai tôi sang hàng xóm “xin lửa”. Tôi cầm trên tay cây đèn Hoa Kỳ nhỏ xíu, chạy lút cút sang nhà bà Đào, thập thò ngoài ngõ, thấy bà đang ngồi giần gạo, liền tới bên: Mẹ cháu bảo cháu sang bà xin tí lửa. Bà Đào kéo tôi vào góc nhà, moi trong cái túi thắt lưng cũ kỹ cái máy lửa. Cái máy lửa! Đó là điều kỳ diệu đối với trí tưởng tượng của tôi.

Bà mở nắp thận trọng, khum tay, bật từng nhát chắc nịch. Nhưng không phải lần nào ngọn lửa cũng hiện ra ngay. Có lần bà bật đến mỏi tay mà chỉ thấy lửa lóa lên yếu ớt.

Bà lấy kim băng gại gại cái bấc, rồi tháo nắp sau, phồng má thổi, rồi lại thận trọng bật những nhát chắc nịch, ngọn lửa vàng khè, khói cay giàn nước mắt. Bà bảo hết dầu (quê tôi gọi dầu hỏa là dầu lửa).

Tôi lớn lên bằng thứ ánh sáng đèn dầu đỏ cạch. Thầy tôi là một “bác khóa”, thường bảo tôi đi ngủ sớm, sáng mai, khi con chích chòe lửa hót trên cây thị trước nhà thì thầy gọi dậy học bài. Học bài lúc đói, không học lúc no. Ngọn đèn dầu của tôi để trên cái mâm giống như chõng tre nhỏ làm bàn, tôi trùm chăn học.

Thầy tôi cũng khoác cái chăn chiên ngồi trên giường, thõng chân xuống đất, trước mặt là cái cánh cửa được kê lên hai cái niễng để làm bàn. Thầy tôi vẽ cuốn thư, vẽ tranh “Anh hùng tương ngộ”, “Tam anh chiến Lã Bố”, “Tứ quý”, “Tứ bình”, “Cuốn thư” , “Câu đối”... Ai đặt gì vẽ nấy. Vừa vẽ vừa trông tôi học. Tôi học bài gì đều phải đọc to lên để thầy cùng nghe, trừ khi làm toán.

Tuổi thơ tôi lớn lên bằng những chiều Đông mưa phùn gió bấc, bọn trẻ trâu rủ nhau nhặt củi ven sông rồi đốt lửa vừa để cho ấm, vừa để nướng khoai, nướng chuối, nướng cá, nướng cua. Các thứ “nướng” ấy đều tình cờ bắt được nơi ruộng đồng.

Thế rồi chiến tranh, thế hệ tôi rời những ngọn lửa chân đê vào lính. Đêm trước ngày tôi ra đi, mẹ tôi ngồi chò chõ bên bếp lửa. Sáng ra, trong hành trang của con trai mẹ có gói xôi ám khói và mấy con cá rô nướng cũng ám khói.

Chúng tôi được luyện quân trên đỉnh Yên Tử, chung quanh doanh trại, đêm đêm những đốm lửa linh thiêng trong các ngôi chùa cùng tiếng mõ gõ nhịp đều đều, tiếng tụng kinh cầu nguyện cho đất nước sớm thanh bình tạo nên sức mạnh thầm kín nuôi dưỡng tâm hồn những người lính trẻ.

Và “đêm hạ sơn” của chúng tôi mới trọng đại làm sao! Những đốm lửa đuốc dân bản đứng dọc theo bìa suối, thấp thoáng hiện lên những gương mặt, những ánh mắt lấp lánh ánh lửa tiễn đưa...

Và, ánh lửa lân tinh trên trốc ba lô đồng đội đưa chân chúng tôi trên đỉnh Trường Sơn. Đốm lửa đèn tín hiệu của má Năm trong ấp chiến lược báo cho các "con Giải phóng" biết đêm nay có địch.

Đám cháy khổng lồ mùa đốt rẫy, lửa bắt nắng hanh, bốc ngợp trời; bếp lửa nhà sàn, các bá, các mí đêm đêm chờ cánh lính Bắc về sưởi ấm sau mỗi lần đánh đồn; rừng lửa đuốc ngờm ngợp núi đồi và thảo nguyên ngày phá ấp.

Ngọn lửa dịu dàng khi em ngực trần vỗ kloongput hát những bài dân ca sâu thăm thẳm tình người, tay nắm tay, bắp vế kề bắp vế, nhảy múa điệu dân vũ bốc lửa theo men rượu cần cùng bốc lửa. Đêm lửa rừng mừng nhà rông mới, bụng trai làng gái làng có lửa quên gian khổ khó khăn.

Mắt nàng H’Bia Đá bốc lửa cùng chàng KơSorTít quay tròn bên bếp than hồng, mắt người già người trẻ trong nhà rông cũng đều rực lên ánh lửa tình yêu. Lửa từ thuở cha ông tìm ra nơi hốc đá bìa nương còn truyền tụng đến tận bây giờ; những điệu múa, những bài hát mềm như lửa. Lửa làm nên sức sống và niềm hân hoan của người lao động.

Tôi giờ đây đã hai thứ tóc, lòng luôn khắc khoải hướng về đốm lửa chân đê, đốm lửa tuổi thơ xin của nhà người hàng xóm luôn dè sẻn nhưng tốt bụng vô cùng. Tôi vẫn thường thấy bóng mẹ tôi trong bếp đun nồi cám lợn, rồi mẹ cời than trấu rấm bếp ủ cái nồi cám to cho mẹ con con lợn sề lúc nào cũng hau háu đòi ăn, rít lên rộn cả chiều.

Đôi lúc tôi lại thấy bóng thầy tôi ngồi im phăng phắc trong đêm, trước mặt người là ngọn đèn nhòe nhoẹt khuya, bất chợt bốc lên, thầy tôi vung bút múa trên tấm vải căng trước mặt, tạo nên những tuyệt tác mà chỉ có cái trong lành của hồn quê nơi thôn dã mới tạo ra được vẻ đẹp huyền bí nhưng cũng gần gũi xiết bao với một đời người.

Vâng, với một đời người, vì tuổi tôi bây giờ cũng trạc tuổi thầy tôi hồi ấy, vậy mà những khoảnh khắc tưởng như bình thường thuở thiếu thời đã theo tôi cho mãi đến bây giờ, tưởng như mới hôm qua hôm kia, mới vừa đấy thôi...

Nguồn:
Đốm lửa đời người



15/3/11

MỘT CHIỀU LẠNH BẤT NGỜ


Sang nửa cuối tháng 3 rồi mà còn có gió mùa đông bắc. Đã thế dự báo thời tiết còn nhắc nhở đợt gió này cường độ rất mạnh, nhiệt độ sẽ tụt xuống 12 độ C và có thể kèm mưa đá.

Trưa đi dự một đám cưới, tình cờ ngồi đúng bàn với người bạn đã lâu không gặp. Chị thổ lộ: "Ngày mai mình đi Belarus. Ở bên đó nên đi thăm thú chỗ nào, dịp này có lễ hội gì không?"

Belarus! Cái tên ấy mới thân thương làm sao! Và tự nhiên nó được nhắc đến trong một ngày trời trở lạnh bất ngờ.

Mới đó mà đã 26 năm trôi qua. Thế mà cứ ngỡ như ngày hôm qua. Belarus là thiên đường tuổi trẻ của tôi và của rất nhiều người khác.

Một thời gian nan, một thời đẹp đẽ.

Nếu như 26 năm trước, có người nói: "Mai mình đi Liên Xô" (Nga, Ukraina, Belarus hay Uzbekistan, Gruzia, Azerbaijan gì gì nữa thì cũng đều là Liên Xô), thì câu tiếp theo sẽ là: "Bên đó hàng gì đang bán chạy (để mua mang sang), có thể mua được hàng gì (để mua đem mang về)?". Nhưng bây giờ thì người ta đã hỏi câu khác.

Khách sạn Đỏ

Ở cái thiên đường tuổi trẻ ấy, chúng tôi đã đi đâu? Tôi nói với người bạn: "Belarus đẹp lắm đấy. Nhưng sang mùa này thì chán chết. Tuyết tan, lép nhép, bẩn thỉu, xám xịt... Thôi cứ được đi là tốt rồi".

Rồi tôi kể ra những cái tên: Pháo đài Brest - Брестская крепость, làng Khatyn - Хатынь (những di tích của Đại chiến Thế giới II), Công viên quốc gia hồ Naroch, Biển Minskoe (thực ra là cái hồ đào rất rộng ở ngoại ô thủ đô Minsk - Минск), Bảo tàng kiến trúc dân gian, Rừng cấm Berezinski, các lâu đài Mirski và Lidski, rừng nguyên sinh Belovezhskaya Pusha - Беловежская пуща...

Còn lễ hội thì sao? Ngày 19.3 ở Belarus có lễ hội Thánh Iosif. Chỉ nghe thế, chứ chưa biết cái lễ hội này ra sao.

Bỗng nhiên thấy nhớ Belarus quay quắt.

Mùa hè 1986, trước khi lên tầu trở về Việt Nam, bạn hỏi: "Bao giờ cậu lại sang"? Nói đại: "Sau 5 năm nữa".

Thế mà rồi sau 5 năm nữa cũng sang thật. Lúc đó là tháng 8. Mùa thu vàng vẫn mê mải đẹp, nhưng đó là đã là thời tao loạn. Cuộc đảo chính bất thành vừa diễn ra ở Mátxcơva, không khí hừng hực bao trùm lên thủ đô Liên Xô. Minsk thì vẫn yên ả thế, gặp lại bạn bè cả Nga lẫn Việt, các cô giáo. Ai cũng quan tâm, trìu mến.

11 năm sau đó, mùa hè 2002 mới có cơ hội đặt chân đến Minsk lần thứ ba. Tầu nhanh đi một đêm từ Mátxcơva. Con tầu quả là một cuộc cách mạng so với tầu thời Liên Xô. Sang trọng, tiện nghi hơn cả TGV của Pháp. Sáng sớm sau khi Minsk đang ngái ngủ thì tầu đến ga. Một nhà ga mới sáng choang, bóng loáng, hiện đại với những bảng điện nhấp nháy đã mọc lên thế chỗ cho nhà ga cũ.

Quảng trường ga Minsk.

Bỗng thấy tiếc cái ga cũ. Bao nhiêu lần trên đường đến trường đã đi qua trước mặt, sau lưng của nó, đã thuộc nó, thế mà nay nó đã vĩnh viễn thuộc về quá khứ...

Minsk của thời kinh tế thị trường vẫn sạch sẽ, ngăn nắp như dưới thời Liên Xô. Và hầu như không có một tấm biển quảng cáo nào!

Trở lại thăm ký túc xá số 3, nhà 15, phố Artilleristov. Đường xá dẫn đến khu ký túc xá đã thay đổi toàn bộ. Bà thường trực từ giữa thập niên 1980 vẫn ngồi đó, nhưng nhất định không cho vào. "Có, tôi nhận ra cậu đã từng ở đây, nhưng không vào được. Cậu là người nước ngoài, giờ là mùa hè không có ai ở đây cả, phải có lệnh của Ban giám hiệu, tôi mới cho cậu vào được" - bà lạnh lùng giải thích.

May mà có cô giáo dạy văn đi cùng. Cô hỏi: "Bà cũng nhận ra tôi là giáo viên của trường phải không? Vậy thì bà hãy cho cậu ấy vào. Tôi bảo đảm không có chuyện gì xảy ra. Người ta tận từ một đất nước xa xôi đến đây, chỉ để thăm lại căn phòng đã ở năm xưa. Còn nhớ là còn quý, đúng không bà?"

Bà thường trực lẳng lặng đồng ý cho tôi vào.

Khu nhà này trước đã từng là ký túc xá tốt nhất của trường, nhưng nay xuống cấp trầm trọng. Cầu thang ẩm mốc. Tôi lên căn phòng số 513 đã từng ở xưa kia. Cánh cửa khép hờ. Hai chiếc giường trơ đệm, hai chiếc ghế để úp trên mặt bàn viết. Giấy dán tường chỗ rách chỗ lành.

Tôi tiến đến sát cửa sổ và nhìn thấy những ngón tay xanh mướt của cây bạch dương mọc dưới sân vươn lên mơn trớn bậu cửa. Bất giác tôi thở dài...

Hai cô trò đi xuống, chụp ảnh chung bên cây bạch dương, cố gắng lấy cho được biển số nhà. Cô an ủi: "Sang tháng người ta sẽ sửa lại ký túc xá này. Lần sau em tới, nó sẽ đẹp hơn".

Cô giáo tôi tỏ ra hài lòng với sự yên bình và ổn định ở Minsk. Cuộc sống không xáo trộn như trên khắp nước Nga rộng lớn. Người Belarus dường như thích trật tự cũ hơn là một xã hội dân chủ với đầy rẫy những bất trắc.

Belarus thân thuộc với những kỷ niệm quá đẹp của một thời tuổi trẻ ngày một lùi xa hơn. Để rồi hôm nay, tại cái đám cưới xa lạ, được một người nhắc tới, ký ức ồ ạt kéo về.

Thật nhớ. Nhớ trong một chiều lạnh bất ngờ...

Tuổi trẻ của tôi, Belarussia... Молодость моя, Белоруссия...

Chẳng lẽ phải sau đúng 11 năm mới quay trở lại Minsk lần thứ tư?




Entries liên quan:
HOA TULIP TRÊN TUYẾT
RỪNG NGA
BELLE VUE
YESTERDAY
BỨC THƯ GIÁNG SINH TỪ CÔ GIÁO CŨ


21/2/11

BÁNH CHƯNG QUA RẰM




Bánh chưng để qua Rằm tháng Giêng thì chắc chắn là thiu hết. Năm nay lạnh, bánh có thể không thiu, nhưng chắc chắn sẽ bị “lại gạo”.

Thật ra, nàng cũng không dám chắc điều đó. Nàng chỉ phỏng đoán khi nhìn thấy 8 cái bánh chưng dài vẫn để trong tủ lạnh. Bánh chưng dài thì gọi là “bánh tày”. Đấy là cách gọi của quê nàng, vùng bán sơn địa, bao năm vẫn chẳng thay đổi chút gì. Rõ nhất là cái bánh chưng ngày Tết bao năm vẫn... dài như thế, xắt ra thành những khoanh tròn, gắp vào bát, lấy đũa “gẩy” chút nhân ở giữa ra, là miếng bánh chưng bị thủng một lỗ hệt như đồng xu. Một “đồng xu” chán nhất thế giới.

Nàng chán cái bánh chưng dài quê nàng từ hồi nhỏ. Bà ngoại ngày xưa, cùng mẹ nàng và các dì là những người rất khéo léo. Nàng phải thừa nhận như thế. Bánh chưng được gói rất tròn, rất chặt, xắt ra đĩa rất đẹp, nhưng phải mỗi tội là rất ít nhân. Mỗi “đồng xu” bánh chưng ấy chỉ có một nhúm nhân đỗ ở giữa và một mẩu thịt tựa như một hòn bi. Từ hồi còn bé, mỗi lần chuẩn bị nấu bánh chưng là nàng lại “ì èo” với bà với mẹ về chuyện này.

Nhưng công thức 9 đấu gạo một đấu đỗ, 2 lạng thịt cho nồi bánh chưng Tết đã hằn vào trong óc bà ngoại nàng từ thời tản cư đói kém, rồi truyền cho mẹ nàng và các dì trong thời bao cấp khốn khổ. Mẹ nàng, kể cả khi con cái đã thành đạt, vẫn không chịu bỏ công thức đó. (Tết năm nọ, hồi nàng sắp lấy chồng, hai mẹ con suýt cãi nhau chỉ vì nàng xúc thêm mấy đấu đỗ nữa để ngâm thêm. Không can được con, mẹ nàng quay ra sụt sịt than nghèo kể khổ, vu cho nàng sắp về thành phố giàu có, ăn sung mặc sướng rồi, coi khinh mẹ và các dì ở quê. Đến nước đó thì nàng đành phải chấp nhận ăn một cái Tết cuối cùng ở quê với những “đồng xu” bánh chưng chán nhất thế giới).

Cũng như mẹ nàng, các dì của nàng kể từ khi lập gia đình riêng, cũng kế thừa công thức bánh chưng ấy một cách xuất sắc. Cho đến tận Tết này, khi nàng đưa gia đình về quê dự đám khao thọ của mẹ, giữa mâm cỗ ê hề, nàng vẫn thấy những “đồng xu” bánh chưng khốn khổ ngày nào: chỉ có một tí nhân ở giữa. Thằng cu nhà nàng, hệt như nàng ngày xưa, dùng đũa chọc thủng miếng nhân bằng hai ngón tay ở giữa, rồi xỏ miếng bánh chưng vào chiếc đũa chạy nhung nhăng khắp nhà. Chồng nào phì cười. Nàng cũng cười nhưng trong lòng thấy ngường ngượng.

Nỗi ám ảnh bánh chưng không buông tha nàng khi trở về thành phố, mẹ nàng, các dì nàng xúm xít chạy theo, mỗi người xách toòng teng theo một xâu hai cái bánh chưng buộc díu vào nhau. Phải vất vả lắm, nàng mới ngăn được cả một nong bánh chưng muốn đổ vào cốp xe ô tô. Dì Ba, dì Tư, dì Năm cùng bảo, bánh chưng biếu nàng đã được mẹ và các dì để dành suốt cả Tết, cháu không nhận thì các dì vứt bỏ ra ao đấy. Các con dì cũng xúm lại bảo, hai cái bánh chưng cho chị, mẹ chúng em đã buộc díu lạt vào nhau để đánh dấu từ khi gói. Cả Tết, mẹ chúng em cứ thấp thỏm chờ chị về, chị không nhận bọn em buồn lắm đấy.

Cuối cùng nàng phải nhận mỗi nhà một đôi bánh chưng, tổng cộng 8 cái, chắc phải ăn cả tuần mới hết.

Nói vậy thôi, chứ 8 cái bánh chưng ấy ăn hết thế nào được. Cứ nghĩ đến việc xắt ra thành những “đồng xu” bánh chưng, nàng đã thấy phát ớn. Đã thế mẹ nàng, các dì nàng mấy lần điện xuống để hỏi thăm công việc đầu Xuân, vẫn không quên hỏi bánh chưng có ngon không, đã ăn hết chưa? Suýt nữa nàng phì cười thành tiếng.

Và bây giờ, đã qua Rằm tháng Giêng, nàng tin rằng tất cả chúng đã thiu hoặc chí ít là “lại gạo”, không ăn được nữa.

Nàng yên tâm vứt chúng ra thùng rác trước cửa, cả thảy 8 cái bánh. Sáng hôm sau, nàng hơi ân hận khi thùng rác bị chuột bới lung tung, mấy cái bánh chưng bị chúng kéo ra khắp cổng, cắn xé vương vãi. Trong khi dọn dẹp, nàng bỗng thấy đỗ xanh và thịt rất nhiều, bị chuột tha đi khắp nơi. Nàng nhặt một đôi bánh chưng mới bị chuột cắn một góc lên lên. Bên trong là cả một khối toàn nhân đỗ với thịt, chỉ có một lớp bánh bao bên ngoài, mỏng như vỏ vải.

Lũ chuột dù cắn xé tả tơi, vẫn không cắn đứt được những chiếc lạt mà mẹ nàng và các dì đã cố ý buộc từng đôi bánh lại với nhau để đánh dấu. Nàng chợt hiểu ra rằng đó là những cặp bánh chưng đặc biệt mà quê ngoại đã vượt qua “công thức chán nhất thế giới” để gói dành riêng cho nàng.

Thiếu Phương


Nguồn:
Bánh chưng qua rằm



5/1/11

BỨC THƯ GIÁNG SINH TỪ CÔ GIÁO CŨ



Hôm nay là lễ Giáng sinh.

Đọc câu này, chắc sẽ có người hỏi: "Giáng sinh nào? Giáng sinh đã qua từ hơn 10 ngày trước rồi còn gì?"

Nhưng hôm nay đúng là Giáng sinh. Giáng sinh của những người theo đạo Slavơ Chính thống ở các nước như Nga, Ukraina, Belarus, Serbia...

Sáng mở email, thấy thư của cô giáo người Belarus dạy văn học hồi năm thứ ba ở Minsk. Mạn phép cô xin chép ra đây chia sẻ cùng mọi người:

"Chào em,

Thời gian mới đã đến ngoài sân.

Năm qua là một năm tồi tệ và nặng nề đối với cô. Em đừng nghĩ là em có lỗi gì đó khiến cô không viết cho em trong suốt năm qua. Cô vẫn nhớ em và vẫn yêu quý em như trước đây.

Người ta đã cho cô nghỉ hưu. Và cô không làm sao giảng hòa được với thực tế đó.

Mỗi người có một nguồn tài nguyên sống, và cô vẫn chưa khai thác hết nguồn tài nguyên ấy, thế mà người ta nỡ xử sự với cô như vậy.

Cô không tài nào trấn tĩnh được, và từ đó xuất phát bệnh tật, những nỗi thất vọng, không còn muốn gặp ai để người ta khỏi phải thông cảm và thương hại.

Chưa kể những điều tồi tệ khác trong thế giới này.

Em hiểu điều đó chứ? Chắc chắn là em hiểu rồi.

Cô lập tức trở thành già cả, không còn cần thiết nữa, không một tiếng chuông điện thoại từ trường đại học.

Số phận thật khủng khiếp.

Bây giờ thì cô hiểu rằng con người ta sống bằng nguồn năng lượng của chính mình, nguồn năng lượng mà mẹ và thiên nhiên ban tặng. Ta tiêu năng lượng đó cho ta, cho những người khác, thế mà có người lợi dụng cơ hội khi mà năng lượng đó đang cạn dần để vội vã loại bỏ ta ra khỏi cuộc sống chung.

Nhưng ta vẫn còn sống. Và không chỉ có thế, ta vẫn còn nguồn năng lượng dự trữ, để sống và thực hiện những trách nhiệm của mình, thế mà có ai đó từ chối ta và tước đoạt quyền công dân đầu tiên của ta – quyền được lao động.

Thật kinh khủng.

Cho cô than thở với em một chút như thế nhé.

Em nhất định phải viết cho cô, công việc của em thế nào, em đang suy nghĩ gì, em có thay đổi gì không?

Em cần phải biết một điều là cô chỉ chúc em những điều tốt đẹp nhất.

Đừng đánh mất chính mình.

Cô giáo của em".

Cảm ơn cô. Vẫn còn chưa trấn tĩnh lại sau cú sốc về hưu sớm, nhưng cô không quên nhắc nhở em: "Đừng đánh mất chính mình".

Em thành tâm chúc cô một Giáng sinh an lành, mong sao những điều tồi tệ sẽ sớm qua và 2011 sẽ đem đến cho cô những niềm vui mới, nghị lực mới, để cô lại thấy mình là người cần thiết, nếu không cần thiết được với nhiều người, thì với một số ít người thôi cũng được, trong đó có em. Cô nhé?

Ảnh trong entry chỉ có tính chất minh họa.

Entry liên quan:
Rừng Nga



8/12/10

GIA TÀI TRONG CHIẾC HỘP GIÀ NUA



VƯƠNG DIỄM

Không ai biết đó là một gia tài. Không ai nghĩ đó là một gia tài. Một gia tài tích cóp bằng một đời người. Chiếc hộp già nua, xộc xệch ấy, ba tôi để trên ngăn cao nhất của chiếc tủ gỗ gõ lên nước bóng loáng trong nhà.

Ai cũng biết ngăn ấy mẹ tôi để dành nữ trang ngày cưới cách đây hơn 50 năm, số tiền ít ỏi dùng để dưỡng già, giấy tờ quan trọng nhất của gia đình... Chiếc hộp già nua nằm lẫn trong ấy, đôi khi, ba tôi lại mang ra phủi bụi, săm soi, tẩy mốc rồi lại nâng niu để vào.

Con cái tò mò, cứ nghĩ điều gì bí mật của ba, dăm lần hỏi mẹ, biết tính chồng sau 50 năm chung sống, bà chỉ cười hiền, không nói. Chiếc hộp phủ bụi trong trí nhớ chúng tôi.

Bạn ba về, một chuyến đi hơn 30 năm. Chuyến đi thăm thẳm như ánh mắt đã cướp mất người vợ thân yêu của bạn ba tôi. Hơn 30 năm, cuộc sống thành đạt nhưng vết thương mất mát vẫn còn trở về xoáy vào người đàn ông ấy. Vết thương hé miệng trong lời kể của ông với ba tôi.

Ba im lặng nghe chuyện, rồi nhẹ nhàng lấy chiếc hộp xuống trong ánh nhìn ngạc nhiên của người bạn. Ba lục tìm và mang ra một tấm bìa cứng, lẳng lặng đưa cho bạn.

Lạ thay, cầm tấm bìa cứng ấy, người đàn ông mạnh mẽ đã òa khóc như trẻ con, những giọt nước mắt làm giãn những nếp nhăn năm tháng trên khuôn mặt. Ông ôm chầm lấy ba mà khóc, ba vỗ lưng bạn thật nhẹ như nói “Khóc đi, đã đến lúc để nước mắt rửa vết thương và để chúng lành lặn”.

Trong cái nhìn ngạc nhiên của anh em tôi, người đàn ông lật tấm bìa cứng ra “Đây là thiệp cưới của chúng tôi, từ năm 1965. Tôi không thể tin có ngày còn nhìn thấy được nó, không thể tin có còn ai trong vài mươi người được mời ngày xưa còn giữ tấm thiệp”.

Tuồng chữ cứng cáp nhưng thanh thoát trên thiệp hiện lên một đám cưới ngập tràn ấm cúng ngày xa xưa. Tấm thiệp chứng nhân, tấm thiệp nhắc nhớ ấy đã theo người đàn ông về lại xứ xa. Ông tin rằng, với tấm thiệp ấy, tình yêu mãi tồn tại, và nơi nẻo xa khuất nào đó, người vợ của ông sẽ hạnh phúc vì tình yêu của ông dành cho bà còn nguyên vẹn và vì ông đã biết cách đi qua nỗi đau...

Anh chị tôi bất hòa trong hôn nhân vì những điều nhỏ nhặt, dù con cái đã vào đại học. Ba lại lục trong gia tài, một trái tim lớn lồng tên anh chị và chữ ký những người dự tiệc được đem ra, chữ ký ba rất rõ. Màu giấy của những ngày cưới khó khăn cách đây hơn 20 năm không đẹp như giờ, nhưng sắc hồng còn rất thắm.

Cả tờ giấy đen xỉn ba ghi vội giờ sinh, ngày sinh, tên đặt, cung trạch... lúc cháu tôi vừa ra đời tại bệnh viện. Sắc hồng còn đó, chữ ký mọi người còn đây, tiếng khóc của cháu tôi còn in trên giấy... lẽ nào! Anh chị ngồi cúi đầu, ba lại bê gia tài cất sau nụ cười “Sống cho phải đạo với ký ức”. Gia tài của ba đỡ đần biết bao lần sóng gió, che chắn những mưa bão đời sống một cách nhẹ nhàng và thản nhiên như thế.

Lâu lắm tôi lại về quê, ba mang cả gia tài ra cho tôi xem. Những mảnh giấy ố màu kỳ diệu. Nhìn qua những thiệp mừng, giấy tờ cũ ấy người xem có thể hình dung ra cả một chặng đường đất nước. Những tấm thiệp nhỏ cỡ bàn tay của thập niên 1950, 1960, in bằng thứ mực xanh học trò, nhẹ nhàng và dễ thương.

Những địa chỉ, tên đường đã mất hút hay đổi thay trong bể dâu lịch sử vẫn còn hơi thở trên những chữ in mờ. Thiệp của thời bao cấp khó khăn được viết tay bằng mực tím, bút tre trên nền giấy kẻ ô, người gửi thiệp vui tay còn điểm thêm một cành hoa vàng bằng bút chì sáp. Hàng trăm phận người, hàng ngàn câu chuyện, biến cố đã đi qua trên những mảnh giấy nhỏ này.

Ba cầm một tấm thiệp cưới của tôi bỏ vào hộp gia tài: “Sẽ có lúc con cần...”. Người canh giữ gia tài ấy tóc nay trắng xóa, nhưng có lẽ gia tài ký ức này đã được chuyển giao, và nhân lên nhiều lần, không chỉ cho riêng tôi!


Nguồn:
Gia tài trong chiếc hộp già nua

Entries liên quan:
HÃY YÊU CHA HƠN
BỐ ƠI, CON ĐẾN RỒI!
CON GÁI ĐI LẤY CHỒNG
SUY GIẢM TRÍ NHỚ
CHA KHÔNG ĐỂ LẠI CỦA CẢI CHO CON...




31/7/10

BÃI BIỂN 100 NĂM TRƯỚC



Một số tấm ảnh dưới đây có tuổi đời hơn 100 năm.

Những người đi nghỉ trên bãi biển trong giai đoạn 1900-1920 trông thật thanh lịch.




























Nguồn:
Пляжи прошлого

Entries liên quan:
ẤN TƯỢNG BAIKAL
ĐI ĐÀO VÀNG Ở BALLARAT
HẢI ĐÔNG LONG CUNG TỰ
NHỮNG NGƯỜI ĐÀN ÔNG INDO
CHỢ CÁ JAGALCHI Ở BUSAN
VƯỜN NHẬT BẢN
NHẬT BẢN HƯƠNG SẮC (2)




20/7/10

LINH VẬT QUA 3 THẬP NIÊN



Thế hệ thiếu niên trải qua năm 1980 hẳn không thể quên chú gấu Misha – linh vật của Olympic Mátxcơva 1980. Thời đó chưa có từ “linh vật”, nên Misha được gọi là biểu tượng của Thế vận hội Mạc tư khoa.


Hoặc đơn giản hơn là gấu Misha, thế thôi.

Gấu Misha như một người bạn nhỏ, đáng yêu, hóm hỉnh, tốt bụng với nụ cười luôn thường trực trên môi.

Gấu Misha không chỉ thân thuộc với trẻ em, mà còn chiếm được cảm tình của cả người lớn.

Gấu Misha trở nên bất diệt còn nhờ màn chia tay lưu luyến tại lễ bế mạc Thế vận hội trong tiếng nhạc “Tạm biệt Mátxcơva” đầy xao xuyến.

Có lẽ bạn đã quên hết những linh vật của những Olympic gần đây, nhưng đa phần trong chúng ta vẫn còn nhớ tới Misha, chú gấu ngộ nghĩnh đã bay về “khu rừng cổ tích tuyệt vời” 30 năm trước trong buổi chiều hè Mátxcơva 3.8.



Người Nga đã xuất sắc nhập thần cho linh vật, tạo sức sống vượt thời gian cho nó. Misha là biểu tượng thành công của một chiến dịch PR quốc gia mà thời đó Liên Xô thực hiện ngoạn mục một cách vô thức.

Tôi vẫn nhớ mãi Misha như một kỷ niệm đẹp của tuổi thơ. Một kỷ niệm về những tình cảm nồng ấm, đôn hậu và thật giản dị về những gì tươi sáng nhất của cuộc sống này.

Entry liên quan:
ẤN TƯỢNG OLYMPIC
DUYÊN PUTIN




 

VMC Copyright © 2009 | Power by Blogger | Template redesigned by Lý Minh Triết