Hiển thị các bài đăng có nhãn điện ảnh. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn điện ảnh. Hiển thị tất cả bài đăng

10/12/11

ĐIỆN ẢNH VIỆT NAM - LẠC QUAN HAY BI QUAN?



Đạo diễn - NSND Đặng Nhật Minh gửi gắm đôi lời tâm sự về nền điện ảnh nước nhà trước thềm Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 17 sắp diễn ra tại thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên.

Tháng 9/2011, tại làng văn hóa Đồng Mô, Thứ trưởng Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch Hồ Anh Tuấn có chủ trì một cuộc hội thảo để bàn về việc chấn hưng điện ảnh nước nhà. Tôi đi vắng nên không có mặt trong cuộc hội thảo đó, chỉ theo dõi qua báo chí với những câu trả lời phỏng vấn, những lời phát biểu hùng hồn của các nhà làm phim trước ống kính truyền hình.

Nói chung giới điện ảnh tỏ ra hết sức bức xúc trước thực trạng ngành điện ảnh mà ai cũng cho là nguy kịch, bi thảm, đến đáy rồi... Vụ thất thoát 38 tỷ đồng tại Cục điện ảnh như một giọt nước làm tràn ly. Nhưng cũng có người cho rằng điện ảnh có gì mà phải bi quan? Bi quan là ở khu vực điện ảnh nhà nước thôi, còn phim do tư nhân sản xuất nghe đâu có phim chỉ sau hai tuần ra rạp đã thu về 40 tỷ đồng thì sao lại bi quan?

Nguyên nhân nào dẫn đến thực trạng trên thì mỗi người một ý. Người đổ cho thiếu sự quan tâm của nhà nước, nhìn sang truyền hình thấy nhà nước ưu ái hơn, được cấp nhiều tiền hơn. Người thì đề nghị nhà nước cấp sổ đỏ cho Hãng phim truyện đầu đàn ở số 4 Thụy Khuê (sổ đỏ cũng là tiền, là tài sản). Người thì nói thẳng ra rằng vì đội ngũ những người làm điện ảnh bất tài...

Vậy biện pháp để khắc phục tình trạng trên là gì? Đa số kêu gọi Nhà nước phải quan tâm hơn nữa đến điện ảnh. Có người còn đề nghị cho điện ảnh quay lại thời bao cấp (mỗi năm nhà nước bỏ ra chừng 25 tỷ đồng là có thể nuôi điện ảnh đàng hoàng). Có người yêu cầu nhà nước phải có chiến lược tổng thể đối với điện ảnh...

Tóm lại nói nôm na là nhà nước phải rót thêm tiền cho điện ảnh. Sự quan tâm gì cũng thể hiện ở chỗ đó, chiến lược gì cũng thể hiện ở chỗ đó. Cũng có ý kiến ngược lại cho rằng nên xóa sổ điện ảnh nhà nước, hãy để cho tư nhân làm phim, tự điều chỉnh lấy nội dung, tự điều tiết theo cơ chế thị trường. Thậm chí có ý kiến nên bỏ hẳn kiểm duyệt. Nhà nước chỉ có trách nhiệm phân loại xem phim nào cấm trẻ em dưới 17 tuổi, phim nào cấm trẻ em dưới 15 tuổi.

Đối với tôi bức tranh của điện ảnh VN ngày nay đã quá rõ ràng. Một khu vực điện ảnh tư nhân ngày càng lớn mạnh tạo nên một thị trường kinh doanh điện ảnh sôi động. Kinh doanh trên các phim nhập ngoại không hạn chế số lượng và thời lượng chiếu, kinh doanh trên các phim sản xuất trong nước mà số lượng ngày càng tăng. Đã là kinh doanh ắt phải lấy lợi nhuận làm mục tiêu, lấy đồng tiền làm mục đích.

Đồng tiền đã, đang và sẽ dẫn dắt khu vực này chẳng cần ai định hướng, mà cũng không có ai định hướng được. Một khi đồng tiền chi phối thì đừng bàn đến tính tư tưởng. Ở đây chỉ có tính thương mại. Một đại gia dầy dạn kinh nghiệm trong lĩnh vực này từng nói: “Chúng tôi kinh doanh là chính. Làm những phim nhảm nhí mới có lãi!“. Quả thật cái gì luật pháp không cấm thì đều được phép làm. Trong luật điện ảnh không có điều khoản nào cấm làm phim nhảm nhí.

Vậy nhà nước chỉ có thể quản lý khu vực này theo cách quản lý thị trường, như quản lý bất cứ hoạt động kinh doanh nào khác theo đúng luật. Nhà nước giám sát để không ai trốn thuế, kiểm soát không để những sản phẩm độc hại ảnh hưởng đến người tiêu dùng, giống như quản lý thực phẩm bầy bán ở chợ hay trong các siêu thị. Còn khu vực điện ảnh nhà nước thì sao?

Nếu nhà nước muốn có những phim mà mình thấy cần thì vẫn phải bỏ ra những khoản tiền nhất định để sản xuất những phim đó. Đó là những phim giáo dục truyền thống, những phim chiếu trong những dịp kỷ niệm những ngày lễ lớn của dân tộc… Vấn đề nhà nước cần suy nghĩ là hiệu quả của đồng tiền bỏ ra để làm sao có được những bộ phim có nội dung sâu sắc, chất lượng nghệ thuật cao (chứ không phải là những phim nhạt nhẽo làm ra cốt để “cúng cụ” cho xong rồi cất kho).

Nhà nước cũng cần làm PR cho các sản phẩm của mình. Lĩnh vực này nhà nước nên học các nhà sản xuất phim tư nhân, phim dở mấy mà PR giỏi họ vẫn hốt bạc. Dầu sao thì phim của nhà nước cầm chắc là lỗ vì mục đích của nhà nước làm phim không phải để kinh doanh. Nhà nước không thể bán vé xem phim đắt như ở các rạp của tư nhân được vì đối tượng phục vụ của nhà nước không phải là những khán giả con cái nhà giàu mà còn đông đảo những người thu nhập thấp ở thành thị lẫn nông thôn...

Tôi từng chứng kiến công cuộc chấn hưng điện ảnh cách đây hơn 10 năm. Lần ấy nhà nước bỏ ra cho chương trình này 208,8 tỷ đồng (xin nhớ 208 tỷ ngày đó tương đương với hơn 400 tỷ bây giờ). Cũng nhờ có số tiền đó mà các hãng phim nhà nước được trang bị thêm một số máy quay, thiết bị chiếu sáng, thu thanh, xây dựng Trung tâm chiếu phim Quốc gia, phục hồi lại được phần nào hệ thống các rạp chiếu phim nhựa (một thời bị biến thành những phòng chiếu phim video, nhà hàng...), trang bị máy phóng cho màng lưới chiếu phim video ở miền núi...

Số tiền nhà nước ngày ấy bỏ ra cho điện ảnh không phải nhỏ, nhưng sự lãng phí trong điện ảnh cũng không ít. Cả một cơ ngơi in tráng, làm hậu kỳ hiện đại nằm đắp chiếu ở Trung tâm kỹ thuật điện ảnh trên đường Hoàng Hoa Thám (nay cho công ty AVG thuê làm trụ sở) vì tất cả các phim truyện của VN bây giờ đều đem sang Bangkok làm hậu kỳ, vừa rẻ lại vừa tốt.

Ba bộ máy làm kỹ xảo cực kỳ đắt tiền cũng nằm mốc meo tại ba nơi không có người sử dụng. Trường quay Cổ Loa đang xây dựng tôi e rồi cũng sẽ cùng chung số phận. Cuộc chấn hưng điện ảnh lần ấy đã qua hơn 10 năm mà chưa hề có một cuộc tổng kết rút kinh nghiệm nào. Bởi vậy lần này lại nghe nói đến hai chữ “chấn hưng”, tôi bỗng giật mình. Ngay sau hội thảo ở Đồng Mô (mà báo chí gọi là Hội nghị Diên hồng của điện ảnh), một tờ báo điện tử có làm cuộc thăm dò ý kiến độc giả. Tính đến ngày 30/9/2011 kết quả có 68% độc giả cho rằng không hy vọng gì vào những nhân tố mới, khó thay đổi bộ mặt của điện ảnh. 25% tin rằng sẽ xuất hiện những nhân tố mới vực điện ảnh đứng dậy. 7% độc giả có những ý kiến khác.

Có lẽ tôi nằm trong số 7% những người có những ý kiến khác trong cuộc thăm dò trên. Ý kiến đó là, nếu Nhà nước muốn duy trì một khu vực điện ảnh của mình, thì việc trước tiên cần làm là phải thay đổi lại quy chế đầu tư và đặt hàng trong điện ảnh. Quy chế hiện hành biến những người nhận đặt hàng của nhà nước (không phải những người nghệ sĩ) thành những ông chủ, coi người nghệ sĩ như những người làm công với mối quan hệ xin cho.

Quy chế hiện hành tạo ra vô số kẽ hở để những kẻ trung gian xà xẻo, rút ruột. Nhà nước cần tôn trọng người nghệ sĩ, trả công thích đáng cho họ (để đừng hổ thẹn với khu vực tư nhân). Về phương diện quản lý, Nhà nước cần sửa đổi lại luật điện ảnh (5 năm qua cho thấy luật này có rất nhiều điều bất ổn), cần cải tiến lại chính sách thuế trong điện ảnh để vừa khuyến khích sản xuất, vừa đảm bảo nhà nước không bị thiệt thòi.

Còn khu vực điện ảnh tư nhân thì hãy để nó tự phát triển và tồn tại theo nguyên tắc cái gì pháp luật không cấm thì cứ việc làm. Nhưng nghĩ cho cùng điều khán giả cần ở điện ảnh Việt Nam là những bộ phim hay, bất kể của nhà nước hay tư nhân, những phim không nhảm nhí vô duyên mà cũng không khô khan nhạt nhẽo. Tôi không bi quan mà cũng không lạc quan. Nhưng tôi hy vọng… một niềm hy vọng giống như đối với bóng đá Việt Nam cho dù chúng ta vừa vỡ mộng ở Sea Games 26.

ĐẠO DIỄN, NSND ĐẶNG NHẬT MINH

Nguồn:
Đến nơi mình là số không



20/8/11

NGHỆ SĨ VÀ CHÍNH TRƯỜNG


NSND Đặng Nhật Minh

Nghệ sĩ mở công ty, nghệ sĩ trở thành đại biểu quốc hội hay nghệ sĩ đảm nhận các cương vị quản lý... không còn là chuyện mới. Liệu khi ấy họ có còn là nghệ sĩ và “chất” nghệ sĩ có đồng hành với công việc đang gánh vác?

Văn nghệ sĩ vinh dự được bầu chọn là Đại biểu Quốc hội (ĐBQH) có thể kể đến nhà thơ Vũ Quần Phương, NSND Đặng Nhật Minh, NSND Chu Thúy Quỳnh, NSND Trà Giang, nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân...

Gần đây, nghệ sĩ trẻ Hồng Ánh được UBMTTQ Việt Nam TP.HCM giới thiệu ứng cử ĐBQH khóa XIII. Khá nhiều nghệ sĩ của TP.HCM cũng đã trúng cử Đại biểu Hội đồng Nhân dân (ĐBHĐND) TP.HCM đợt này: NSƯT Hồng Vân, ca sĩ - diễn viên Thanh Thúy, nghệ sĩ cải lương Quế Trân...

Danh cao, phận dày

Hồng Ánh là nghệ sĩ duy nhất được Liên hiệp Các hội Văn hóa Nghệ thuật (VHNT) TP.HCM giới thiệu ứng cử ĐBQH. Theo người của Ban chấp hành (BCH) Hội Điện ảnh TP.HCM (tổ chức ban đầu giới thiệu Hồng Ánh ứng cử), cô hội đủ các yếu tố về tuổi tác, đạo đức và năng lực để có thể đại diện cho giới văn nghệ sĩ TP.HCM ở nhiệm kỳ này.

Chưa đảm nhiệm cương vị lãnh đạo hay ở trong BCH của tổ chức nghề nghiệp nào, Hồng Ánh mới chỉ được biết đến qua các vai diễn và giải thưởng điện ảnh.

Là Phó giám đốc Công ty TNHH Hãng phim Xanh, cô vừa mới bắt tay vào sản xuất một số dự án.

Điều này càng nối dài những vinh dự và cả những thử thách với cô trên con đường trở thành đại biểu của nhân dân, trước hết là cất lên tiếng nói của giới nghệ sĩ TP.HCM đã gửi gắm nơi cô, nếu cô trúng cử.

Thế nhưng, không phải nghệ sĩ nào cũng sẵn sàng cho thử thách ở nghị trường. Tại Hà Nội, Hội Liên hiệp VHNT Hà Nội đã nhắm giới thiệu một nữ diễn viên chèo và một phóng viên báo hình, cả hai đều có tên tuổi, xinh đẹp và trẻ trung, nhưng họ khước từ vì... bận.

Theo nhà thơ Bằng Việt, Chủ tịch Hội Liên hiệp VHNT TP. Hà Nội, các kỳ trước có khá nhiều nghệ sĩ được giới thiệu là ứng cử viên ĐBQH nhưng họ đều từ chối, như nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ (lúc đó ở trong BCH Hội Nhà văn Hà Nội), nhà biên kịch Bành Mai Phương (Hãng phim Truyện Việt Nam)...

Theo họ, xung quanh cuộc sống và nghề nghiệp của người nổi tiếng vốn đầy thị phi.

Trong khi đó, bước vào con đường của “ông nghị, bà nghị” đồng nghĩa với hình ảnh và tên tuổi của nghệ sĩ cần xứng đáng với vị trí chính trị họ đang nắm giữ. Các nghệ sĩ tiền bối là ĐBQH ở vào thời kỳ showbiz chưa phát triển sôi động và nghệ sĩ cũng không bị dư luận “săm soi” như bây giờ.

Tuổi họ đều cao, nên ít chịu ảnh hưởng bởi những “dư chấn” từ dư luận và truyền thông. Bây giờ thì khác. Khi thông tin Hồng Ánh là ứng cử viên ĐBQH vừa phát ra, lập tức nhận được lời bàn tán, chỉ trích về nhân cách của cô từ một người trong giới, kèm theo đó là hàng trăm bình luận của độc giả, người ủng hộ, người phản đối.

May mắn cho cô, cô vẫn thắng phiếu tuyệt đối (dù chuyện tai bay vạ gió đó xảy ra trước khi lấy ý kiến cử tri nơi cư trú) và là một trong 22 người đạt tỷ lệ 100% trong cuộc bỏ phiếu kín tại Hội nghị Hiệp thương lần ba.

Diễn viên điện ảnh Hồng Ánh

Áp lực trách nhiệm cao nên nhiều nghệ sĩ cũng không “mon men” tới chính giới. Nhà thơ Bằng Việt, tốt nghiệp cử nhân luật ở nước ngoài, từng được nhắm đến để đưa vào danh sách ứng cử viên ĐBQH năm 1995.

Ông cười giải thích với người tín nhiệm, sở dĩ ông từ chối là “vì muốn có thời gian để tự do bù khú với bạn bè, đi đây đó và làm những việc mình thích. Một nhiệm kỳ ĐBQH mà nói không ra hồn thì dân mắng cho, nói nhiều lại dễ bị vạ miệng”.

Ở cương vị Chủ tịch Hội Liên hiệp VHNT TP. Hà Nội, có dịp gặp gỡ, thuyết phục và vận động những người có khả năng và đủ điều kiện để đưa vào danh sách ứng cử viên, nhà thơ Bằng Việt có thể hiểu lý do của sự khước từ còn ở chỗ đời sống cơm áo và những nhu cầu vật chất vẫn còn theo đuổi văn nghệ sĩ, trong khi nếu có danh tiếng ở cương vị chính trị cũng không đi kèm lợi ích vật chất.

Sân khấu - cuộc đời

Ở các nước, việc nghệ sĩ trở thành chính trị gia không còn xa lạ và hai vị trí này có tác động tương hỗ khá mật thiết.

Xuất thân từ nghệ sĩ hay đang tham gia lĩnh vực nghệ thuật nên trong sự nghiệp chính trị, họ dành nhiều sự ưu tiên cho giới của họ là chuyện dễ hiểu.

Các nghệ sĩ ở ta phần nào phát huy được vai trò này, nói được tiếng nói cần thiết của cử tri và người trong giới mình.

NSND Đặng Nhật Minh trong nhiều khóa làm ĐBQH đã dành sự quan tâm đặc biệt đối với Luật Điện ảnh và cuối cùng luật này đã được thông qua, ghi nhận nhiều nỗ lực của ông trên cương vị ĐBQH, dù Luật chưa thực sự hoàn chỉnh.

Chia sẻ với báo giới, NSƯT Hồng Vân chẳng hề giấu giếm ý định sẽ... “xin cái nhà hát” nếu trúng cử ĐBHĐND TP.HCM. Ở chiều ngược lại, ở cương vị mới, nghệ sĩ có điều kiện thâm nhập thực tế sâu sát hơn.

Nhà thơ Vũ Quần Phương chia sẻ với báo giới, làm ĐBQH cho ông cơ hội thấy tình cảnh của người dân, qua đó ảnh hưởng đến nhận thức xã hội để bước đến văn chương, thay đổi khuynh hướng sáng tác...

NSND Trà Giang thổ lộ, những cuộc gặp gỡ, tiếp xúc với người dân khơi dậy trong bà sự cảm thông, giúp bà hiểu được tâm tư, tình cảm của họ.

Có ý kiến lo lắng, nghệ sĩ thì cứ hãy là... nghệ sĩ, chính trường không phải là “sân khấu” nên không phù hợp với họ. Khi họ chưa kịp trở thành một chính trị gia giỏi thì xã hội đã mất một nghệ sĩ, hoặc họ chỉ có thể trở thành chính trị gia... diễn giỏi mà thôi.

Nói gì thì nói, vẫn không thể phủ nhận việc nghệ sĩ nước nhà ngày càng có nhiều cơ hội tham gia chính trường, khi mà tầm ảnh hưởng của những người nổi tiếng ở lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật có tác động lớn, thậm chí rất lớn đến công chúng.

Nhưng trên hết, như nhà thơ Bằng Việt nhấn mạnh, không phải có mặt nghệ sĩ để “đẹp đội hình, mà người được lựa chọn có biết ăn nói có ích cho văn nghệ sĩ và phong trào chung hay không”.

CUNG CẦU


Nguồn:
NGHỆ SĨ VÀ CHÍNH TRƯỜNG





28/7/11

NHÀ ĐƠN CÔI


Có khi nào bạn muốn đến một nơi thật xa, đắm mình trong thiên nhiên cô liêu, rời xa khỏi thế giới văn minh xô bồ và hỗn độn?

Hãy chọn một trong những ngôi nhà dưới đây.


























Nguồn:
Одинокие дома вдалеке от цивилизации



20/4/11

TẢN MẠN VỀ LỀU CHÕNG



LÂM VIỆT

Người học ngày nay vẫn nơm nớp với những gì không thật sự giá trị như nhớ đúng, thuộc đủ những công thức, những ý tứ máy móc để quên mất điều quan trọng hơn là sự chủ động trong tư duy và hứng thú sáng tạo. Sự thiếu hụt, bỡ ngỡ bị xem là tối dạ; cách sao chép, mô phỏng được cho là cứng cáp, là tiềm năng.

Thú thực, xem xong bộ phim Lều chõng của đạo diễn Nguyễn Thanh Vân (Hãng phim TFS sản xuất) dễ đến cả tuần lễ sau tôi vẫn bị ám ảnh. Bộ phim dựa trên một truyện dài cùng tên của nhà văn Ngô Tất Tố xoay quanh câu chuyện về anh học trò tài năng Đoàn Vân Hạc bị hỏng thi hết lần này lần khác vì nhiều lí do khác nhau. Có điều, tất cả những lần thi hỏng ấy đều từ những lí do khách quan như ốm đau, hay quy phạm ngặt nghèo của trường thi mà tài năng kiệt xuất ấy đã không được trân trọng và lựa chọn. Không chấp nhận những rủi ro liên tiếp như định mệnh, Đoàn Vân Hạc vẫn bản lĩnh vượt qua tất cả trong lần dự thi cuối cùng. Tưởng như đã chạm được một tay vào danh vị thủ khoa năm ấy thì bỗng dưng anh biến thành kẻ trắng tay trong phút chốc.

Giấc mộng công danh biến mất, màn ảnh nhỏ khép lại, người xem thấy tiếc cho một tài năng, thấy bức bối với quy định nghiệt ngã của xã hội cũ và có thêm một suy cảm mới mẻ: Nhìn lại chuyện bút nghiên ngày nay, vẫn còn quá nhiều rào cản và thử thách không đáng có ngăn trở bước tiến của những tài năng trong cuộc sống hiện đại.

Trong suốt gần một ngàn năm tồn tại, các kì thi này đã tuyển chọn, cất nhắc được nhiều nhân sĩ, trí thức nổi tiếng mà không câu nệ vào tuổi tác như trạng Nguyễn Hiền 13 tuổi hay tướng mạo xấu xí, quái dị như Mạc Đĩnh Chi. Tuy nhiên, ở giai đoạn thoái trào của các tập đoàn phong kiến, đã xuất hiện những quy định phiền hà, oái oăm đánh trượt nhiều tài năng. Trước sự vận động của thời cuộc, đòi hỏi tìm kiếm những người có tài năng, cá tính mạnh mẽ. Có tư duy linh hoạt bứt phá thì những chuẩn mực lạc lõng kia thực sự là những rào cản nghiệt ngã. Sự tồn tại của nó xuất phát từ quan niệm ấu trĩ về cách đánh giá và lựa chọn hiền tài dựa trên những tiêu chí máy móc. Nó buộc người ta phải vượt qua những may rủi của con đường thiên lý đến những sự tránh né, kiêng kị trong câu cú, gò mình trong khẩu khí.

Chuyện lều chõng tưởng cũng đã xưa. Vậy mà bất giác lại khiến tôi nghĩ đến một kỷ niệm. Nhớ lại cái ngày còn bé, gia đình tôi còn ở một bản miền núi. Tôi hiểu vào đời lập nghiệp thiêng liêng thế nào khi chứng kiến anh trai mình dậy từ gà gáy khăn gói về Hà Nội thi đại học. Hai giờ sáng xe chạy, mất gần hai ngày rong ruổi đủ cả ngủ trọ, cơm nắm, cơm đùm, qua bao đèo dốc quanh co… Đêm trước ngày thi, Hà Nội lại có cơn giông lớn, cây đổ gây ách tắc nhiều ngả đường, phố xá ngập lụt. Đường đến cổng trường đại học của những thí sinh năm đó lại đằng đẵng thêm một quãng nữa. Có phải số anh tôi vất vả hay cái nghiệp thi cử thời nào cũng gian nan thế ư? Sau này lớn lên tôi hiểu, điều ấy được đổi lại bằng sự công tâm của những kì thi mà nếu đưa về các địa phương hay lồng ghép "2 trong 1" thì thật là khó…

Vài năm sau gia đình tôi chuyển về gần Hà Nội. So với anh cả, tôi và các em tôi được làm “người phố xá” nên thấy cái gì cũng lợi, cũng tiện, hơn hẳn những học trò vùng xa xôi. Quá khứ thi cử nhọc nhằn của anh giờ chỉ còn là chuyện kể vui tai trong bữa cơm của đại gia đình. Có lẽ, những con đường mòn lầy lội kia đã vĩnh viễn nằm dưới lớp bê tông, chiếc xe khách cà tàng ba ngày chạy về Hà Nội một chuyến đã vào một bãi sắt vụn nào đó. Nhưng hoá ra không phải, những phương tiện hiện đại đã giúp người học bớt đi một phần sức lực nhưng vẫn còn đó quá nhiều những rào cản không đáng có bởi những quan niệm cũ kĩ.

Thời phổ thông, học trò căng sức với các môn thi đại học. Kiến thức đa phần nằm trong quyển vở ghi lời lẽ của thầy. Thế mà vào đại học chúng tôi cứ vấp hết thứ này đến thứ khác. Những thứ khó vì lạ chứ không phải vì đòi hỏi trình độ tư duy. Nào là: cách đọc sách, cách lập dàn ý, cách viết tiểu luận, làm việc theo nhóm, seminar… mà lần đầu tiên đã là lần đánh giá trình độ.

Có phải vì đã là sinh viên (được coi là có học) là phải biết rồi chứ! Phải sẵn từ trước đó. Người phương Tây cho rằng, để chuẩn bị cho toàn cầu hoá nền giáo dục, họ sẽ bắt đầu xây dựng từ cấp phổ thông. Bởi lẽ, họ muốn trang bị cho học trò những kĩ năng trước khi vào cuộc đua tri nhận kiến thức và tư duy ở các cấp học cao hơn. Nói cách khác, mọi học sinh đều ngang tầm nhau về trang bị và hồ hởi đua sức. Khi đó việc đánh giá, phân loại sẽ dễ dàng và chính xác biết bao. Thế mà học trò của ta lắm khi cứ bị “bé đi”, bị “trầy xước” bởi việc làm quen với những thao tác kia trước khi nhập cuộc đua tri thức.

Ngẫm lại mới thấy sự ám ảnh với chiếc lều chõng là có lí thật. Dẫu rằng, ngót trăm năm qua những thứ gianh tre kia đã mục nát lâu rồi. Đó là một gánh nặng khác. Gánh nặng của những quy tắc đã lỗi thời mà ở những nền giáo dục tiên tiến không còn tồn tại. Đó là người học vẫn nơp nớm với những gì không thật sự giá trị như nhớ đúng, thuộc đủ những công thức, những ý tứ máy móc để quên mất điều quan trọng hơn là sự chủ động trong tư duy và hứng thú sáng tao. Sự thiếu hụt, bỡ ngỡ bị xem là tối dạ, cách sao chép, mô phỏng được cho là cứng cáp, là tiềm năng. Như thể ta mãi chú ý cái tầm cao của tên lửa mà quên nhìn lại cái mấp mô, lổn nhổn của từng bệ phóng cho tri thức.

Cũng như muôn vàn bình diện khác của cuộc sống, giáo dục đang tự làm mới mình bằng những thay đổi đáng kể trong những năm gần đây. Công bằng mà nói chuyện thi cử của chúng ta ngày nay cũng rất nghiêm túc. Nhưng cớ sao chuyện tìm kiếm và đào tạo nhân tài vẫn còn nhiều điều bất cập. Có lẽ chỉ khi nào chúng ta dũng cảm từ bỏ được những quan niệm cũ thì nỗi ám ảnh ấy không còn nữa. Như thế con đường lập nghiệp bằng chữ nghĩa mới thật sự rộng mở với mọi người.

Ảnh: Các cảnh trong phim "Lều chõng"

Nguồn:
Tản mạn về lều chõng



1/4/11

NGƯỜI ĐÀN BÀ TỪ BỎ SÂN GA


Lyudmila Gurchenko, nữ diễn viên điện ảnh thượng thặng của Nga, người được khán giả Việt Nam ngưỡng mộ qua vai diễn Vera trong bộ phim "Ga dành cho hai người", đã qua đời hôm 30.3.2011, thọ 75 tuổi.

Nổi danh từ vai diễn Lena Krylova trong phim "Đêm hội hóa trang" «Карнавальная ночь» năm 1956, Lyudmila Gurchenko chứng tỏ mình là một diễn viên đa tài. Sở hữu một vẻ đẹp trong sáng, hồn hậu và thánh thiện, cô vừa biết diễn, vừa biết hát, vừa biết nhảy múa. Vai diễn trong "Đêm hội hóa trang" xuất sắc đến nỗi suốt từ 1956 cho đến 1982, Lyudmila Gurchenko không có vai nào xuất sắc hơn trên màn ảnh.

"Đêm hội hóa trang" trở thành tác phẩm kinh điển của điện ảnh Xôviết, từ khi ra đời đến nay, đêm giao thừa nào nó cũng được truyền hình Liên Xô và bây giờ là truyền hình Nga phát sóng.

Năm 1982, Lyudmila Gurchenko tái hợp với đạo diễn Eldar Ryazanov (Эльдар Рязанов) trong tác phẩm bất hủ "Ga dành cho hai người" (Вокзал для двоих). Bạn có thể đọc lại bài giới thiệu bộ phim và vai diễn của Gurchenko mà tôi viết nhân kỷ niệm sinh nhật lần thứ 75 của bà cách đây hơn 3 tháng.

Ngoài ra, bà còn ghi dấu ấn diễn xuất trong các tác phẩm điện ảnh khác như "Năm buổi tối" của Nikita Mikhalkov, "Người đàn bà yêu dấu của anh thợ cơ khí Gavrilov" của đạo diễn Petr Todorovsky, "Hai mươi ngày không có chiến tranh" của đao diễn Nina Nikolaevna... Bà cũng nổi danh trên sân khấu kịch nói, ca nhạc và đạo diễn điện ảnh.

Báo chí Nga ca ngợi bà là "huyền thoại sống", "nữ diễn viên kiệt xuất" của điện ảnh Nga.

Gurchenko và người chồng cuối Sergei Senin

Lyudmila Gurchenko có 5 đời chồng, tất cả đều là những người nổi tiếng, trong đó có nam danh ca Iosif Kobzon. Ông hiện là nghị sĩ Duma Quốc gia - Hạ viện Nga.


Bà qua đời tại nhà riêng chiều 30.3 sau một cơn đau tim. Đó là lúc 6h30 phút chiều, hai vợ chồng đang ngồi uống trà và nói chuyện thì bà đột ngột cảm thấy khó thở và đau nhói ở tim. Bà chỉ kịp nói với chồng điều đó và bất tỉnh. Ông Sergei Senin đã làm hô hấp nhân tạo và xoa bóp tim, nhưng vô hiệu. "Bà ấy qua đời trong vòng 1 phút" - ông Senin nói với các nhân viên y tế đến cấp cứu bà sau đó 21 phút đồng hồ.

Đúng vào dịp lễ tình nhân năm nay, khi dẫn chó đi dạo, Gurchenko đã bị ngã và gẫy xương hông. Không những thế, bà còn bị đập đầu vào chiếc xe hơi đỗ cạnh vỉa hè. Sau một thời gian được điều trị tại bệnh viện, bà đã được xuất viện trước ngày 8.3. Bà có tiền sử bệnh tim, mà theo lời các bác sĩ, là hậu quả của những ca phẫu thuật thẩm mỹ giúp bà trẻ hơn tuổi thực 30 năm.

Người đàn bà đã từ bỏ sân ga...

HUYỀN THOẠI ''GA DÀNH CHO HAI NGƯỜI"
NGƯỜI HAM TỎA SÁNG
Людмила Гурченко - Wikipedia




13/11/10

HUYỀN THOẠI ''GA DÀNH CHO HAI NGƯỜI"


Gurchenko trong vai Vera

''Ga dành cho hai người" (tên nguyên bản trong tiếng Nga "Вокзал для двоих") là tác phẩm của đạo diễn bậc thầy của điện ảnh Xôviết Eldar Ryazanov (Эльдар Рязанов) do xưởng Mosfilm sản xuất năm 1983.

Không rõ tôi đã xem bộ phim này bao nhiêu lần kể từ khi nó ra đời đến nay. Lần đầu xem bằng tiếng Nga, sau giờ học chỉ kịp mua hai cái bánh rán trên phố rồi chạy vào rạp xem phim. Tiếng Nga hồi đó còn lõm bõm, có nhiều tình tiết không hiểu (ví dụ tại sao nhạc sĩ dương cầm Ryabinin phải đi tù). Nhưng vẫn thấy hay.

Đi xem về, hỏi các bạn Nga cùng ký túc xá, mới biết nhân vật chính đi tù thay cho vợ. Chị vợ là xướng ngôn viên truyền hình, lái xe gây tai nạn, Ryabinin thương vợ nên tự nhận đã ngồi sau vô lăng khi đó. Nhưng một phụ nữ nổi tiếng thì không thể có chồng bị đi tù. Chị ta đã ly dị.

Nhân vật gây ấn tượng mạnh nhất trong phim là Vera, người phụ nữ trung niên, phục vụ bàn ăn trong restaurant ở một nhà ga. Chị xinh đẹp, chắc đã đi qua những đổ vỡ, giờ bằng lòng với công việc không tốt không xấu, với cuộc sống một mình trong một căn nhà tuềnh toàng ở ngoại ô một thành phố nhỏ. Niềm vui duy nhất của chị đó là năm bữa nửa tháng được gặp chóng vánh anh bồ trẻ làm nghề soát vé mỗi khi đoàn tầu của anh ta dừng lại khoảng hai chục phút trên ga.

Cái nhà ga không lớn không bé ấy cũng chính là nơi Ryabinin bị nhỡ chuyến tầu khi đang trên đường đi thăm cha trước khi thụ án tù ở Siberia. Họ gặp nhau trong bối cảnh chẳng ra gì. Ryabinin chẳng những bị nhỡ tầu, mà còn vô tình bị anh bồ trẻ của Vera cầm mất giấy tờ, rồi sau đó lại bị kẻ cắp móc hết tiền bạc...

Vera - người gián tiếp gây ra những phiền toái cho Ryabinin buộc phải giúp đỡ người đàn ông này. Chị lấy đồ ăn thừa trong nhà hàng mang cho anh; cùng anh đi bán dưa hấu ngoài chợ; cùng đi tìm một toa tầu trống làm chỗ ngủ qua đêm. Trong vài ngày cùng vạ vật ở nhà ga đó, họ tình cờ khám phá ra những nét đẹp của nhau. Một tình yêu muộn màng cho hai con người dường như không còn trông mong điều gì tốt đẹp nữa khi sắp bước sang tuổi xế chiều.

Phim hấp dẫn không chỉ ở câu chuyện giầu kịch tính, những tình huống hài cười ra nước mắt, tính nhân bản cao cả, mà còn nhờ tài nghệ diễn xuất tuyệt vời của các ngôi sao điện ảnh lừng lẫy của Liên Xô trước đây và Nga ngày nay: Lyudmila Gurchenko (vai Vera), Oleg Basilashvili (vai Ryabinin), Nikita Mikhalkov (anh bồ trẻ).



Lyudmila Gurchenko vào vai Vera ở tuổi 48. Lúc đó bà đã là một tên tuổi lớn của điện ảnh Xôviết với những vai diễn thành công vang dội như Lena Krylova (phim ''Đêm hội hóa trang" - Карнавальная ночь năm 1956, phim này hay đến nỗi từ khi sản xuất đến nay, đêm 31.12 nào nó cũng được phát sóng trên kênh 1 Truyền hình Trung ương Liên Xô và Nga), Taia (phim Bản tình ca Siberia - Сибириада năm 1978)...

Với vai Vera, Gurchenko có đủ đất để phô diễn tài nghệ diễn xuất đặc sắc của mình. Người ta thấy trong bà một phụ nữ đầy mâu thuẫn, đa tính cách, ghê gớm, sắc sảo, nhưng lại rất nữ tính, rất đằm thắm và rất nhân hậu. Bà rất thành công khi diễn ra những cảm xúc khác nhau trong những đoạn diễn không lời kéo dài vài phút nhưng chỉ bằng một cú bấm máy quay.

Ví dụ như trong đoạn dưới đây. Vera đến Siberia thăm Ryabinin đang thụ án tù. Chiêu đãi sở nằm cách trại giam 10 km. Ryabinin được lệnh đến thăm "vợ" một đêm, kèm thêm nhiệm vụ lấy cây đàn phong cầm vừa sửa xong và phải mặt tại trại giam đúng 7 giờ sáng hôm sau, nếu không muốn bị coi là bỏ trốn. Chắc khó có diễn viên nào diễn được những cung bậc cảm xúc của một người phụ nữ đi gặp người yêu trong bối cảnh gian nan ấy. Chị lo cơm nước cho anh và hạnh phúc khi được anh khen "đồ ăn ngon"...



Họ dậy muộn. Chị chạy theo anh, động viên anh vượt qua chặng đường 10km trên tuyết trắng: "Em đi cùng anh, em không bao giờ bỏ anh". Câu nói của chị khi họ đi gần đến trại giam và anh đã gần như kiệt sức đã trở thành kinh điển trong dân gian: "Anh đi giỏi lắm, rất giỏi. Chỉ có điều là chậm quá".

Đó cũng là lúc điểm danh tù nhân buổi sáng. Họ không có cách nào để có mặt tại trại giam. Điều này đồng nghĩa với việc án tù của Ryabinin có thể bị kéo dài. Chính Vera đã nghĩ ra một cách, chị hối hả mở hộp đàn, ấn chiếc phong cầm vào tay Ryabinin: "Anh kéo đàn đi. Họ sẽ nghe thấy anh". Hai con người kiệt sức tựa lưng vào nhau. Ryabinin kéo đàn. Tiếng đàn lọt qua bức tường trại giam và người sĩ quan quản giáo điểm danh mỉm cười.

Gurchenko đã nhận nhiều giải thưởng diễn xuất cho vai diễn này.

Bà không chỉ là diễn viên điện ảnh xuất sắc, mà còn là ca sĩ nhạc nhẹ, diễn viên kịch. Ở vai trò nào, Gurchenko cũng để lại dấu ấn cá tính độc đáo.

Gurchenko ở tuổi 72

Gurchenko tròn 75 tuổi vào ngày hôm qua (12.11). Bà được Tổng thống Medvedev ký sắc lệnh tặng thưởng Huân chương Phụng sự tổ quốc hạng nhất (trước đó bà đã được nhận các huân chương này hạng nhì và ba). Trải qua cuộc đời nhiều thăng trầm với 5 cuộc hôn nhân, ở tuổi 75 bà vẫn có chỗ đứng trên sân khấu với một sắc vóc trẻ trung (nhờ phẫu thuật thẩm mỹ) và một vòng eo chỉ giao động từ 58-60 cm suốt từ khi đóng vai Lena Krylova đến giờ.

BONUS
Ở tuổi cổ lai hy xưa nay hiếm,
Gurchenko trông vẫn gợi cảm và hát hay như thế này:

25/10/10

NGHĨ TỪ PHIM "CÁNH ĐỒNG BẤT TẬN"


Hồ Trung Tú

Hiếm có một tác phẩm văn học nào lại được công chúng chờ đợi để được xem phim chuyển thể như truyện ngắn “Cánh đồng bất tận”. Mà không chỉ công chúng, giới điện ảnh cũng nhấp nhổm chuyện làm phim tác phẩm này ngay sau khi nó được in. Nhà văn Nguyễn Quang Sáng, tác giả kịch bản nhiều phim danh giá nhất của Việt Nam thì nói: “Chuyện có, văn có, cảnh có, nhân vật rất đậm nét, chỉ còn có hình có nhạc nữa là xong bộ phim. Sẽ là bộ phim hay, tôi tin lắm”. Nguyễn Quang Lập thì kể: “Đọc xong cánh đồng bất tận, mình thấy ngôn ngữ điện ảnh đầy ắp. Chưa thấy tác phẩm nào mà người Nam bộ lại đẹp một cách đau đớn đến thế. Mình điện cho đạo diễn Thanh Vân, Vân bảo em mới đọc xong, chỉ mong đến sáng để gọi cho anh. Tuy nhiên, nó phải làm thế nào, làm bởi ai, nếu không khéo đó chỉ thuần tuý một câu chuyện thương tâm thì lại vứt”.

Thế nhưng, dường như chúng ta đã có một khả năng xấu nhất trong mọi khả năng có thể. Rơi vào tay một đạo diễn khác chúng ta cũng vẫn sẽ có một phim lấy nước mắt người xem như thế chứ không thể kém hơn (bằng chứng là bản chuyển thể kịch nói và cải lương truyện này cũng lấy nước mắt người xem đâu kém ?), nhưng chúng ta chí ít cũng sẽ có được những khung hình lặng lẽ cô đơn của chiếc xuồng giữa mênh mông đồng nước (ừ, lạ nhỉ, cả phim không có lấy được một khung hình nào như thế mà thay vào đó là những ầm ĩ của đám đông, của chợ búa làng xóm); chúng ta cũng sẽ có được cơn đau của người bố Út Vũ khi bò quanh con, cố tìm thứ đó gì để đắp lên cái thân thể rách bươm của cô con gái chứ không phải đứng lên rồi hét trời ơi !

Có quá nhiều việc phải làm, có quá nhiều chi tiết phải được thể hiện để dẫn đến các cao trào thế nhưng các nhà làm phim đã lại chọn một câu thoại để thay thế. Cậu bé trai Điền yêu cô gái điếm Sương là cả một quá trình chứa trong nó rất nhiều chi tiết vốn là sở trưởng của điện ảnh, thế nhưng đạo diễn đã cho qua tất cả, không một chi tiết nào được mô tả. Để chuẩn bị cho cảnh Điền ôm chiếc áo lót của Sương mà hôn, không một chi tiết nào được nói đến ngoại trừ câu thoại của Sương: “Chị biết là em yêu chị”!

Những chi tiết ký ức về người mẹ của đứa con gái đâu rồi để chỉ còn lại mỗi một câu thoại “Em nhớ mẹ !”. Cũng vậy, để kéo được người mẹ cạn lòng lên giường lão bán vải cũng chỉ buông độc một câu tán tỉnh trong khi trong truyện và cả trong bài học điện ảnh cơ bản nhất thì đó là đất dụng võ của ngôn ngữ điện ảnh, đó là chỗ điện ảnh tung hoành mà không loại hình nghệ thuật nào có được ưu thế như nó.

Thay vào những chi tiết cần phải có với một tác phẩm điện ảnh đúng nghĩa thì các nhà làm phim lại dành quá nhiều thời lượng cho những pha rên rỉ, đau đớn và khóc lóc. Bị đòn ghen, Sương rên than dài quá, đến sốt cả ruột. Lúc bỏ đi Sương cũng khóc đến là lâu, khóc uất ức, đau xót như mất mát hoặc oan ức nào đó trong khi lẽ ra đó là nước mắt của sự giận dữ trước sự tàn nhẫn của người cha lòng chứa đầy hận thù kia.

Cứ vậy, câu chuyện được kể vội vàng, như cố cho xong chuyện, lấy lời thoại thay cho vô số tình huống cần mô tả bằng hình ảnh.

Nếu nói về thành công nào đó thì thành công hoàn toàn thuộc về Nguyễn Ngọc Tư. Với một câu chuyện văn học như vậy thì chuyển thể sang kịch nói, cải lương, hát chèo gì đi nữa thì cũng lấy nước mắt khán giả một cách dễ dàng, làm phim thì nhà đạo diễn non tay thế nào đi nữa thì chắc chắn cũng sẽ khó mà tệ hơn những gì ta đã được xem. Nếu lấy những phát biểu như “Nước mắt đã rơi”, “khán giả hài lòng”, “tôi đã khóc qua từng khung hình”, “đẫm nước mắt qua từng cảnh phim”... để đánh giá tác phẩm thành công hay không thì kịch nói, cải lương cũng làm được vậy chứ không kém hơn, hoặc số lượng người xem đến rạp, thì cần phải nói rõ do chính vì số lượng người đọc “Cánh đồng bất tận” chứ đâu phải chỉ bản thân chất lượng phim ! Tác phẩm văn học đã chạm được đến những tầng sâu cảm xúc của ghen tuông, hận thù và cả yêu thương nhưng tác phẩm điện ảnh này thì không, nó chỉ còn là câu chuyện thương tâm không hơn không kém. Đó là chưa nói ý của nhà văn Nguyên Ngọc, đây không chỉ là cách đồng ở miền tây, ở Việt Nam mà là cách đồng của nhân loại, của thế giới bởi ở đâu cũng sẽ có những yêu thương đau khổ và hận thù như thế; đã không được bộ phim này chạm đến.

Dù biết thế nào là một tác phẩm điện ảnh hay là một điều rất khó có tiếng nói chung, giống như người thích ăn thịt gà còn người thì không, có cách hình dung truyện thế này nhưng cũng có cách hình dung truyện thế kia. Thế nhưng kiểu gì thì kiểu, đã là điện ảnh mà bỏ qua tất cả những sở trường của điện ảnh thì không thể bảo đó là tác phẩm hay được. Cao trào chính của phim để giải quyết, mở nút toàn bộ câu chuyện, cao trào khiến người cha phá sản một lối sống, một nỗi hận thù phụ nữ chính là trường đoạn Nương bị lũ côn đồ hiếp. Đọc truyện, chất điện ảnh đậm đặc qua mô tả của Nguyễn Ngọc Tư, nó lặng yên, thậm chí là im phăng phắc cho dù hoàn cảnh là sự la hét đau đớn. Nương trong truyện nằm lặng im nghe cơ thể bị xé toạc, nước mắt lặng im lăn ra vì nhớ đến mẹ, vì chợt nhận ra đó không phải là niềm hoan lạc, vì chợt nhận ra mình gọi Điền cứu chứ không gọi cha cho dù cha ở ngay bên cạnh.

Lẽ ra đó phải là một trường đoạn của lặng im, của những pha quay chậm như không gian và thời gian đã dừng lại, lặng im không một tiếng động trên những vẻ mặt đau đớn của Út Vũ, của cưỡng hiếp. Ở phim, thì đó chỉ là sự la hét, gào thét như bất cứ cuộc hiếp dâm rẻ tiền nào khác. Cái nằm bất động của Nương cũng là cái bất động của người bất tỉnh chứ không phải là sự ê chề của cả cuộc sống bất hạnh dồn nén đổ lên đầu cô gái 17 tuổi chưa kịp làm trẻ con, chưa kịp làm người lớn ấy. Biết đòi hỏi là vô lý khi các tác giả đã không thể chạm tới được những tầng sâu ấy của tác phẩm nhưng chúng ta vẫn có quyền tiếc. Đơn giản là vì chúng ta đã bị đánh cắp mất đề tài, mất cơ hội để xem một tác phẩm điện ảnh có quyền để hay với thế giới.

Chúng ta cũng tiếc cho những cánh đồng mênh mông của miền Tây không được vào phim. “Cánh đồng hoang” của Hồng Sến, “Mùa len trâu” của Nguyễn Võ Nghiêm Minh đi trước đã rõ là những cánh đồng mênh mông của người hận đời muốn xa lánh con người, thế nhưng ở đây thì chúng ta đã không được nhìn thấy cách đồng nào thực sự mênh mông không bóng người đó. Chiếc thuyền dường như cũng không phải là chiếc thuyền của những người nuôi vịt chạy đồng mà là thuyền của những thương hồ buôn hàng trên những kênh rạch miền tây. Phải chăng cần phải có con thuyền đủ chỗ cho diễn viên và đoàn quay phim hoạt động nên nó mới to đến thế. Sao những cảnh nội trong thuyền không vào phim trường thì mọi chuyện sẽ thật hơn không ?

Chưa nói phim đã có quá nhiều những hạt sạn đến... mẻ răng. Hải Yến ngồi mà lúc nào bàn chân cũng duỗi ra như các người mẫu tạo dáng để gây ảo giác cho cặp chân thêm dài; tay vuốt tóc đi dọc thân như một diễn viên múa thực sự; Út Vũ ngồi co một chân chưa thực sự giống như người nông dân ngồi; Tăng Thanh Hà vào vai người mẹ “như một clip ca nhạc” (bloger) .

Từ trường đoạn cảnh chôn vịt không khác gì phóng sự truyền hình trên VTV (bloger) chúng ta sẽ nhận ra phim quá nhiều khung hình trung cảnh. Phim hiện đại rất ít trung cảnh. Để nói không gian thì trung cảnh không chuyển tài được gì, để đặc tả nội tâm thì trung cảnh càng không. Ở phim CĐBT thì trung cảnh chiếm số lượng quá lớn, đã thế, tất cả góc máy được đặt trên chân, khuôn hình bất động , diễn viên xuất hiện hoặc bước vào bước ra để nói. Cụ thể nhất của phương pháp làm phim này là cảnh Điền bắt cá, khung hình bất động, Nương ở ngoài vừa chạy vào vừa gọi Điền ơi Điền hỡi, đến sát bên Điền và nói “Chị đi đến nhà bọn kiểm dịch rồi”. Thực tế cuộc sống đâu có vậy, Nương cách mấy bước chân sao còn gọi Điền ơi! Nương vẫn có thể đứng trên bờ ruộng nói cũng được chứ đầu cần phải chạy đến nơi!

Máy quay đặt trên chân, rồi pan, rồi lia, nhân vật bước vào, bước ra khung hình là cách làm của phim video và cả phim nhựa Việt Nam lâu quá rồi mà chưa có thuốc chữa. Hãy mở tivi vào kênh HBO mà xem có phim nào máy quay đặt trên chân hay không ? Không hoà nhập với thế giới ngay trong điều cơ bản nhất của điện ảnh là khuôn hình thì có lẽ điện ảnh Việt Nam đừng nghĩ đến chuyện giật những giải thưởng lớn của thế giới làm gì cho hy vọng nó thêm mỏi mệt. Hay nói cách khác, các đạo diễn Việt Nam hãy khăn gói đi học trở lại ở những trung tâm điện ảnh lớn của thế giới trước khi nuôi hy vọng về chuyện mang phim đi dự thi.

Ừ nhỉ, qua “Cánh đồng bất tận” mới thấy, tại sao ta hoàn toàn chưa có bất cứ một đạo diễn nào khăn gói sang Hollywood để học một cách tử tế các bài cơ bản nhất của ngôn ngữ điện ảnh, hoặc gần hơn như Hồng Kông để bắt chước những pha hành động sạch nước cản cho bà con xem đỡ xấu hổ. Tại sao vậy nhỉ ?




24/10/10

CÁNH ĐỒNG BẤT TẬN - PHIM PHOTOSHOP



Nhà phê bình Nguyễn Thanh Sơn

Tôi (không) đứng về phe nước mắt...


Có một câu nói rất đúng cho tình cảnh của điện ảnh Việt Nam hiện nay “chúng ta đã có quá nhiều những kẻ thông minh (vặt), thiếu là thiếu những người dũng cảm”!

Đúng vậy, bởi đưa được những giá trị nhân văn trong tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Ngọc Tư lên được màn ảnh rộng rất cần sự dũng cảm. Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư là tiếng thét câm lặng, uất ức của hiện thực về số phận bi thảm của người nông dân miền Tây: bị bần cùng hóa, bị đẩy vào một “cánh đồng bất tận” của nghèo đói, áp bức và sự thờ ơ vô cảm của xã hội. Trên cái nền tương phản của vô tận sông nước và đồng lúa trù phú của miền Tây, những số phận nghèo khổ cứ phải trôi nổi, tưởng có thể tụ vào nhau rồi lại ly tán, để lại cho người đọc dư vị đắng cay của sự bất lực, cho dù ẩn sâu trong nó vẫn mêng mông chan chứa tình người.

Những giá trị đáng trân trọng đó của Cánh đồng bất tận, rất tiếc, đã bị đạo diễn Nguyễn Phan Quang Bình đánh rơi trên con đường “phải đạo hóa” tác phẩm điện ảnh của mình. Xem phim Cánh đồng bất tận, chúng ta mới biết, số phận trôi nổi đắng cay của ba cha con Sương hoàn toàn là một bi kịch cá nhân(!)- vợ Út Võ bỏ ba cha con đi theo một chú Chệt chỉ đơn giản vì những miếng vải đẹp; Út Võ hoàn toàn có thể sống một cuộc sống ổn định, làm một ông lái đò đưa học sinh tới trường nếu ông muốn vậy. Và đám “cường hào mới” ở nông thôn, những kẻ phải chịu trách nhiệm về những đắng cay áp bức mà người nông dân phải gánh chịu trong tác phẩm văn học, lại được bàn tay đạo diễn “linh hoạt” chuyển đổi thành đám lưu manh giang hồ vùng sông nước- ồ, bi kịch của người nông dân miền Tây chỉ xuất phát từ lỗi của chính họ, và hóa ra sự áp bức bất công mà họ phải gánh chịu cũng xuất phát từ những người cùng khổ như họ.

Vo cho tròn sự quyết liệt của tác phẩm văn học, lại thiếu dũng cảm để chọn cho mình một hướng tiếp cận mới cho tác phẩm điện ảnh, không ngạc nhiên khi đạo diễn Nguyễn Phan Quang Bình rất lúng túng khi xử lý góc nhìn của bộ phim. Ban đầu, bộ phim đã có một sự khởi đầu khá tốt khi ống kính được đặt ở góc nhìn của Điền, nhưng ngay sau đó, bộ phim bị kéo lê thê bằng góc nhìn trung tính minh họa cho tác phẩm văn họ. Lẽ ra, nếu bộ phim được kể lại bằng góc nhìn của nhân vật Nương, thì nhân vật cô gái điếm Sương chỉ là nhân vật phụ, là chất xúc tác đẩy tình cảm và xung đột của ba cha con Út Võ lên đến cao trào. Nguyễn Phan Quang Bình đã dành quá nhiều ưu ái cho nhân vật Sương, khiến tuyến nhân vật phụ lấn át tuyến nhân vật chính, nên khi cô Sương ra đi, bộ phim bị mất điểm nhấn, cứ trôi dạt mãi cho tới một cái kết “từ trên trời rơi xuống”.


Là một đạo diễn, Nguyễn Phan Quang Bình phải thừa hiểu, thế mạnh của tác phẩm điện ảnh là hình ảnh và hành động phim, chứ không phải lời thoại của nhân vật (nguyên tắc hàng đầu của điện ảnh “hãy cho họ thấy, đừng thoại!”- Show them, do not tell them). Nhưng anh đã quá lệ thuộc vào lời thoại của tác phẩm văn học mà không chuyển tải được nó bằng điện ảnh. Chi tiết rất hay trong truyện qua lời kể của Nương “từ ngày đó, ba em chỉ gầm gừ và tằng hắng. Chúng em phải nương theo tiếng tằng hắng của ba để đoán ý”…phải được thể hiện trong phim bằng cách Nương/Điền đoán định ý ba qua tiếng tằng hắng ra sao. Nhưng Út Võ không hề gầm gừ hay tằng hắng mà chỉ thấy quát tháo trong phim, cũng không có gì trong phim chứng tỏ Nương và Điền hiểu tiếng tằng hắng hay gầm gừ của cha. Hay để chứng tỏ cuộc sống trôi nổi vô định của gia đình Út Võ, phải có hàng loạt hành động điện ảnh, chứ không phải đơn giản như câu thoại của Nương khi thấy Điền làm hàng rào quanh cây bưởi mới trồng “trồng làm gì để đi xa rồi lại nhớ”- nỗi nhớ, lẽ ra phải được thể hiện bằng hình ảnh, thì lại đơn giản thông qua một câu thoại mùi mẫn. Hay hình ảnh có tính ẩn dụ về cây sống đời mà “mỗi một lá rơi xuống lại đem lại những mầm sống, như tình cảm của chị đối với chúng em, đi xa nhưng vẫn sống mãi”-lại cũng chỉ là một câu thoại hầu như không chút ăn nhập với hình ảnh phim

Chính vì không hiểu (hay không dám hiểu) giá trị nhân văn chính của tác phẩm văn học, trong việc xây dựng tính cách nhân vật, đạo diễn Nguyễn Phan Quang Bình đã đánh mất đi cái đẹp sâu sắc tiềm ẩn trong tính cách của mỗi một số phận trong Cánh đồng bất tận, và điều đó khiến cho dàn diễn viên nổi tiếng của anh có những vai diễn đáng thất vọng nhất trong bộ phim này. Dustin Nguyễn, trong đoạn phỏng vấn để quảng bá cho bộ phim, nhắc đi nhắc lại “ông Võ là người rất xấu…nhưng xem phim, bạn sẽ thấy ông ấy có lý do để làm như vậy…”- Dustin đã nhầm, vấn đề ở đây không phải ở “lý do”, mà bản chất, ông Võ không phải là người xấu. Tại sao dù đau khổ nhưng Nương và Điền vẫn bám theo ba suốt dọc hành trình,vì các em hiểu rằng- dưới lớp vỏ cộc cằn, cay đắng và thậm chí đôi lúc tàn nhẫn là tình thương các con, là một tâm hồn bị tổn thương sâu sắc. Dustin Nguyễn chỉ diễn được chất cộc cằn và tàn nhẫn, và chỉ chạm rất phớt được tầng sâu đó của nhân vật, nên khi anh cố gắng diễn sâu hơn, như khi anh đưa lại chiếc nhẫn cho Nương, hay cảnh kêu trời thống thiết đáng thất vọng của anh ở cuối phim thì cách diễn lại mang đầy tính “kịch” giả tạo. Tạo hình vạm vỡ của anh, cái cách anh ngồi uống rượu, chặt củi hay ân ái với Sương đều rất ít điểm chung với nhân vật nông dân miền Tây mà anh phải thể hiện.

Nhưng thất vọng lớn nhất của bộ phim là Đỗ Thị Hải Yến. Thách thức và áp lực đối với cô ở vai Sương là rõ rệt: hình ảnh một cô gái điếm miền Tây đơn sơ, bị cuộc sống đầy đọa nhưng vẫn mong mỏi yêu thương và được yêu thương, sẵn sàng hi sinh nhưng cũng sẵn sàng rời bỏ khi cảm thấy nhân cách của mình bị xúc phạm… là một vai diễn khó với Hải Yến. Và cô đã không vượt qua được thách thức này. Dù có những cảnh diễn đạt (cảnh đầu tiên của phim, cảnh cô xăng xái tươi cười tràn ngập hạnh phúc xới cơm cho gia đình Út Võ sau đêm ân ái), nhìn chung khán giả không nhìn thấy cô gái điếm miền Tây trong cô. Từ cái giọng bèn bẹt (“ôi chị làm gái ấy mà”), ánh mắt giả tạo (“ba của mấy cưng đẹp trai ghê ta”), trang phục xa lạ (áo trắng tinh) đến hành động tạo hình (nắm bàn tay Út Võ, từ từ ngả người ra sau, những cảnh cô xoa đầu trò chuyện với Điền, Nương) đều thấy rõ sự “diễn” gượng gạo của cô. Nếu không được bù đắp lại bằng sự duyên dáng tươi trẻ của Lan Ngọc (vai Nương), khắc khổ và chân thành của Thanh Hòa (vai Điền), thì diễn viên có thể được coi là thất bại lớn thứ hai của phim Cánh đồng bất tận.


Tính photoshop của Cánh đồng bất tận còn được thể hiện rõ rệt ở hình ảnh và sắp đặt của bộ phim -không phải mầu nâu của đất, màu đen của sình lầy, không phải những giọt mồ hôi hay nếp nhăn của nghèo đói và tuyệt vọng trên khuôn mặt của các nhân vật- mà trong phim vàng rực màu vàng của lúa, màu xanh ngắt của cỏ và màu trắng của những chiếc áo của Nương, của Sương. “Miền Tây của chúng ta lên phim đẹp quá anh nhỉ. Các công ty du lịch thích lắm đó”-Nguyễn Ngọc Tư nói với tôi bằng vẻ tự trào cay đắng của cô. Để “đẹp hóa” bộ phim, đạo diễn Nguyễn Phan Quang Bình sẵn sàng hi sinh tính trung thực của thực tế, mà cảnh Sương tắm trong đìa sen là một ví dụ điển hình- bất cứ người dân miền Tây nào cũng biết đìa sen với gai góc và bùn lầy là nơi bẩn nhất, là nơi không ai có thể tắm. Hay những hình ảnh sắp đặt của hai cô gái Nương và Sương mặc áo trắng múc từng gáo nước trên thuyền- cảnh quay lẽ ra phải để Sương gợi cho Nương nhớ đến người mẹ mà cô hàng đêm mong nhớ- thì lại trở thành một cảnh quay tạo hình một vẻ đẹp “chẳng để làm gì” giữa trời nước miền Tây.

Với một cốt truyện hay, một dàn diễn viên nổi tiếng, được đầu tư chu đáo, lẽ ra Cánh đồng bất tận hoàn toàn có cơ hội để trở thành một tác phẩm điện ảnh thành công, hơn là chỉ được đánh giá cao về diễn xuất của một vài diễn viên, của hình ảnh đèm đẹp hay âm nhạc mang đậm tính dân tộc/hiện đại của Quốc Trung. Victor Hugo có một câu nói nổi tiếng về sự dũng cảm của người nghệ sĩ „hãy như con chim không e ngại sà xuống cành cây sắp gẫy, cho dù cảm thấy cành cây trĩu xuống, vẫn hát bài ca thường nhật, vì biết rằng mình vẫn còn đôi cánh để nâng đỡ”. Phải chăng vì thiếu đi sự nâng đỡ của đôi cách (tài năng) ấy, mà Cánh đồng bất tận không có được sự dũng cảm của một tác phẩm nghệ thuật đích thực?




Nguồn:
Bài trên Facebook của Nguyễn Thanh Sơn



21/9/10

CẶP MẮT ĐẸP DÃ MAN (4)



Nhưng vị bác sĩ lại không dọa nạt gì, ông chỉ nói: "Chị xếp hàng chờ nhé!". Đến đây thì Larisa nổi xung. Là diễn viên nổi tiếng, lại còn là người quen mà phải ôm bụng chờ xếp hàng à? Ông bác sĩ lạnh tanh: "Chị phải ngồi chờ thôi!". Larisa tức tối đi về. Chị gặp Igor ở cửa nhà. Anh nói: "Anh van em. Hãy bình tâm và hãy sinh con". Chị tru tréo: "Thôi đủ rồi. Sao anh cứ không chịu hiểu tôi là thế nào? Tôi cứ làm như tôi đã tính!".

Bình tĩnh được một lát, mẹ chị lại lên tiếng an ủi: "Thôi, để đẻ đi con. Con đẻ thêm là xinh ra đấy. Con thấy không, ngoài thằng Igor ra thì con còn sống được với ai nữa chứ? Đừng làm cho nó đau nữa. Con đẻ đi, mẹ sẽ nuôi cho. Đừng ngại!". Trong người Larisa bỗng trào lên một cơn điên cuồng: "Các người hãy để cho tôi yên. Tôi tự biết, không cần các người phải khuyên nhủ".

Igor im lặng, không một lời mát mẻ, không một lời giận dữ. Anh chỉ nhắc đi nhắc lại một câu: "Hãy giữ con!". Larisa tìm cách khác. Chị nói: "Thôi, anh với em ta thỏa thuận thế này: Lần này em sẽ không sinh. Mình sống thế này thêm 1-2 năm. Rồi nếu anh muốn, thì chúng mình sẽ có con". Nhưng Igor kiên quyết: "Anh muốn đứa bé này".

Mãi về sau, Igor mới kể lại rằng trong chuyến đi Israel lần ấy, khi hai người đứng bên Bức tường Khóc than, Igor đã viết vào mảnh giấy để lại trên bức tường: "Tôi muốn một đứa con gái giống như Larisa". Còn Larisa thì sao? Chị viết muốn được nổi tiếng, được giàu có, muốn có tàu thủy, máy bay, muốn có những vai tầm cỡ thế giới. Muốn đạt được tất cả những thứ mà người đời phải lồng lộn uất hận ghen tức.

Ngày Larisa đi nạo thai, trong nhà trở nên yên ắng lạ thường. Cả mẹ chị lẫn Igor đều im lặng. Larisa gặng hỏi: "Mẹ sao thế?". Bà nói giọng lạnh tanh: "Không, có gì đâu. Thôi, chị đi đi. Tôi chẳng có gì để nói với chị cả!". Larisa ra đường. Chị vừa đi vừa nhủ thầm: "Á à, các người tẩy chay tôi phải không? Đã thế, tôi sẽ đẻ, rồi mặc kệ các người!"

Thay vì đi bệnh viện, chị rẽ vào beauty salon, sau đó gọi nhà hàng đặt bàn, rồi gọi điện cho cả nhà đến. Khi mẹ, người tình và con trai có mặt đông đủ, chị gọi loại rượu champagne đắt nhất, rồi nói: "Có tin quan trọng cho cả nhà đây". Họ ngồi nghe, mặt đầy cảnh giác. Chị kéo dài thời gian chờ đợi của mọi người, rồi buông một câu: "Tôi sẽ đẻ".

Tất cả sung sướng, cười nói như hóa điên.


Ngay lập tức Larisa hỏi Igor: "Anh định tặng em cái gì?". Igor đáp: "Bất cứ thứ gì em muốn". Larisa nói chị ước ao có được chiếc đồng hồ nạm kim cương. Đương nhiên, yêu cầu của chị được Igor đáp ứng.

Chuỗi ngày hạnh phúc nhất trong cuộc đời Larisa bắt đầu.

... Đưa con gái Lelya từ bệnh viện về nhà, Larisa ngay lập tức quỳ gối xin Chúa tha tội. Chị không hiểu chính bản thân mình, tại sao chị lại có suy nghĩ điên rồ là hủy hoại cái bào thai mà giờ đây là đứa bé gái vô cùng xinh đẹp này. Mẹ chị an ủi: "Thôi chuyện qua rồi, con quên đi, đừng tự dày vò mình như thế". Chị dập đầu: "Con biết ơn những người chồng đã tặng cho con hai đứa trẻ thiên thần này cho đến khi con phải chui vào quan tài!".

Mẹ chị giữ lời, giành quyền chăm sóc đứa bé, giải phóng Larisa khỏi hầu hết những vất vả của người phụ nữ sau khi sinh.

Nhưng Larisa dường như không tin vào hạnh phúc của chính mình. Có lần chị hỏi Igor: "Này anh, nếu có chuyện xảy ra, không phải do cố ý mà là do ngu ngốc em phản bội anh, thì anh có tha thứ cho em không?". Igor trả lời: "Nếu một lần, thì anh sẽ tha thứ".

Và cái phút giây ngu ngốc ấy thực tế đã xảy ra. Larisa vội vã thú nhận với chồng. Và lần đầu tiên trong đời, người đàn ông vị tha bậc nhất thế giới ấy đã giơ tay lên. Anh còn có thể phản ứng bằng cách nào khác sau lời thú tội như vậy? Larisa tức tưởi: Em hứa, em hứa sẽ không làm anh phải đau đầu nữa, em hứa sẽ không bao giờ để chuyện này lặp lại.


Mặc dù Igor nhiều lần khẳng định với Larisa rằng, ngoài chị ra anh không để mắt tới người phụ nữ nào khác. nhưng chị vẫn không tin chắc vào chuyện đó. Một người đàn ông thông minh, đẹp trai, làm nghề kinh doanh như anh, làm sao lại không có chuyện đi ngang về tắt. Ai cũng chỉ có một cuộc đời, anh lại là người đàn ông bình thường, gặp người phụ nữ đẹp, chẳng lẽ anh lại không sử dụng những khả năng của mình?

Igor ôn tồn: "Anh không lừa dối em, và như thế anh cảm thấy dễ chịu hơn. Anh thấy hài lòng với cuộc sống hiện nay, anh còn cần gì nữa? Em thử nói cho anh biết xem đời anh còn thiếu thứ gì nữa? Chẳng lẽ có những người phụ nữ khác xinh hơn em, thông minh hơn em, gợi cảm hơn em? Anh không thấy có người như vậy".

Larisa cứ vật vã với suy nghĩ như vậy cho đến khi con trai chị phải thốt lên: "Nếu mẹ làm chú Igor bỏ đi, thì con sẽ không bao giờ tha thứ cho mẹ. Con cũng sẽ đi ở cùng với chú ấy, bởi vì không có ai tốt hơn chú ấy".

Lời cảnh cáo của con trai đã thức tỉnh Larisa. Chị biết rằng cứ mỗi khi chị uống rượu là trong chị lại trỗi dậy một con người khác, không liên quan gì đến thực tại. Con người đó dường như tồn tại bẩm sinh trong chị, hoặc sót lại sau thời tuổi trẻ điên cuồng, hoặc là kết quả của những căng thẳng tinh thần mà chị phải chịu đựng. Mỗi khi con người đó trỗi dậy là Larisa lại muộn la hét, muốn gây tổn thương cho những người xung quanh.

Igor hiểu rằng đó là những di chứng của một thời nghiện rượu mà Larisa phải chống chọi trong những tháng ngày đưa người chồng đầu tiên đi cai nghiện ma túy. Anh hiểu và tha thứ tất cả.

"Tôi với Igor không chỉ là vợ chồng, mà còn là bạn bè. Sự khát khao rồi cũng giảm đi theo thời gian và trở nên nhàm chán. Khi đó thì còn lại gì? Nếu vợ chồng mà không có đồng cảm thì thật là thảm họa" - Larisa tâm sự. Theo chị, khi còn trẻ, người ta thường nhầm lẫn giữa "ham muốn" và "tình yêu",còn giờ đây khi đã bước sang tuổi trung niên, nhận thức về đàn ông của chị đã trưởng thành.

"Tôi không cần ai hết, ngoài Igor. Tôi không thể sống thiếu người đàn ông này. Không có anh ấy tôi thấy đời thật vô vị. Tất nhiên, với tính cách của tôi thì tôi thường xuyên "hút máu" anh ấy. Nhưng tôi rất sợ mất anh ấy. Tôi đã tỉnh ngộ và những điều tồi tệ nhất giữa chúng tôi đã qua. Bây giờ tôi sẽ là người vợ tuyệt vời nhất thế giới".

Entries liên quan:
CẶP MẮT ĐẸP DÃ MAN! (1)
CẶP MẮT ĐẸP DÃ MAN! (2)
CẶP MẮT ĐẸP DÃ MAN! (3)


 

VMC Copyright © 2009 | Power by Blogger | Template redesigned by Lý Minh Triết