Hiển thị các bài đăng có nhãn Hà Nội. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Hà Nội. Hiển thị tất cả bài đăng

27/8/11

"SÁNG KIẾN" CẤM XE MÁY VÀO GIỜ CAO ĐIỂM



1. Trong bầu không khí “Trưng Vương khung cửa mùa Thu” đầy lãng mạn “Thu giăng heo may cho bóng cây lạnh đầy” này mà phải nói đến chuyện phàm tục như đi xe máy và đề xuất cấm xe máy, thật không có gì buồn bã hơn.

Tôi, cũng như rất nhiều người khác ở Hà Nội, là người đi xe máy hằng ngày. Và cũng như rất nhiều người khác, tôi rất ghét phải chịu cảnh đông đúc chen đẩy xô lấn, phải hít khói bụi và trời mưa phải mặc áo mưa mà vẫn bị nước bẩn bắn vào người. Nhưng tôi tin rằng tắc đường liên miên ở Hà Nội không chỉ là do quá nhiều xe máy, mà còn do đường thì nhỏ mà có quá nhiều ô tô.

Sáu giờ chiều mà ở chốt giao thông xế bên khách sạn Daewoo nơi phố Kim Mã cắt phố Nguyễn Chí Thanh và Liễu Giai, ta thường xuyên chứng kiến cảnh sáu chiếc xe ô tô dàn hàng ngang trên đường. Trong hoàn cảnh ấy, những tay lái xe máy “lụa” nhất của đất Hà thành cũng chịu thúc thủ, đừng nói gì đến gây tắc đường. Phố nhỏ cỡ phổ biến ở thủ đô chỉ cần một chiếc ô tô bốn chỗ đỗ hớ hênh là cũng đủ gây ách tắc, rồi đánh nhau, rồi náo loạn.

2. Giờ đây người ta lại nghiêm túc mà xem xét một đề xuất cấm xe máy vào các giờ cao điểm, hai tiếng rưỡi buổi sáng, hai tiếng buổi trưa và hai tiếng rưỡi buổi chiều, tổng cộng vị chi bảy tiếng mỗi ngày, nối dài thêm danh sách những ý tưởng kỳ quặc đến tuyệt vọng trong nỗ lực cải tiến tình hình giao thông ở Hà Nội.

Về bản chất, đề xuất này cũng không khá hơn (ở khía cạnh duy lý) với những đề xuất thuộc dạng xe biển chẵn đi ngày chẵn, biển lẻ đi ngày lẻ, hay nhẹ cân, ngực lép không được phép điều khiển mô tô... tạo nên cả những tranh luận sôi nổi lẫn tiếng cười chế giễu trước đây.

Giả dụ cứ cho rằng ta áp dụng đề xuất trên đây vào thực tế: vậy thì ta căn cứ vào giờ của đồng hồ nào? Hay thành phố sẽ sử dụng lại chế độ còi tan tầm xưa kia từng rất thân thương? Rồi giờ cấm xe máy sẽ tính cho thời điểm dắt xe ra khỏi cửa nhà hay xuất hiện trên phố? Và dắt xe đi bộ ngoài đường mà không nổ máy bình bịch thì có bị tính là vi phạm quy định hay không?

Tôi đã tưởng tượng được ra cảnh hàng trăm hàng nghìn con người dắt xe thất thểu đi trên đường, vừa đi vừa canh me đồng hồ đeo tay, rồi khi đến giờ, mọi người sẽ nhảy phắt lên yên, giống hệt như một đội ky binh được lệnh xung phong trên chiến địa.

Vả lại, một khi đã cấm như vậy, rất có khả năng “giờ cao điểm” ở Hà Nội sẽ chuyển luôn sang những giờ không cấm xe máy, vì tỉ lệ người làm tự do và ở khối tư nhân giờ đã cao quá rồi, đâu có phụ thuộc vào giờ giấc hành chính xưa nay nữa.

3. Cùng theo “nguyên lý đề xuất” ấy, ta có thể nghĩ ra nhiều sáng kiến đóng góp nữa, cái nào cũng có mức độ khả thi nhất định cả: chẳng hạn như ta hãy cấm phụ nữ lái xe ô tô, vì phụ nữ thường mất năm đến sáu “đỏ” mới đỗ được xe vào vệ đường, đỗ được rồi là mừng quá bỏ xe đó chạy biến đi, mặc cho xe xiên xẹo và bánh trước thường chếch một góc 45 độ so với thân xe, không những vậy họ lại còn hay nhầm chân ga và chân phanh. Hoặc ta có thể cấm xe máy những ngày nhiệt độ hơn 25 độ, vì trời nóng mà ngửi khói nhiều người dân dễ bị ngất, vân vân và vân vân.

Bài học từ chuyện bắt buộc đội mũ bảo hiểm đã là quá rõ: một khi đã là bắt buộc và thực sự có lợi ích, thì sẽ áp dụng được và áp dụng cho mọi người không có ngoại lệ, còn chừng nào chỉ là những manh mún, vá víu thì những đề xuất giời ơi đất hỡi chỉ xứng đáng làm đề tài cho những ai rỗi việc lúc trà dư tửu hậu mà thôi.

CON SÂU

Nguồn:
Lại một "sáng kiến" giao thông




22/8/11

MỘT CÁCH NHÌN KHÁC VỀ "BÚN MẮNG", "CHÁO CHỬI"


Bà chủ quán "bún mắng" - Ảnh: Dân trí'

1. Không biết bao nhiêu bài báo đã viết về “bún mắng, cháo chửi” ở Hà Nội, thậm chí còn bổ sung thêm các món như “phở quát”, “phở xếp hàng”.

Xin được giải thích ngay rằng đây không phải là những món đặc sản “nên biết trước khi chết”, hay “lúc sống nên thưởng thức” như một số trang web về ẩm thực nước ngoài phong tặng. Đó chỉ là cách gọi tắt về một số hàng ăn có cách phục vụ “không giống ai” (thường la mắng, quát lác với nhân viên hoặc thậm chí là cả thực khách). Điều ngạc nhiên nhất đối với mọi người là mặc dù thái độ phục vụ “củ chuối” như vậy, nhưng hàng ăn vẫn đông khách, thậm chí người ta chen nhau vào ăn bất chấp bị “mắng, chửi, quát, xếp hàng”.

Chính sự vô lý này mà nhiều người cố gắng giải thích cái “văn hóa ẩm thực” giàu nhẫn nhịn đến lạ kỳ của người Hà Nội. Trong bài phân tích gần đây nhất trên báo chí: “Bún mắng, cháo chửi” và CEO làm bảo vệ”, người viết đưa ra lý giải từ góc độ xã hội: “Việc trải qua một thời kỳ dài bao cấp, nơi những mậu dịch viên có quyền ban phát ân huệ đã tạo cho người Hà Nội một sự chấp nhận một cách vô thức và đáng tiếc về thân phận chiếu dưới của mình”. “Tâm lý “nó chửi cả làng Vũ Đại” đã tự ve vuốt tính sĩ diện vốn rất cao của mỗi người Hà Nội”.

2. Thật ra trước một hiện tượng như vậy có rất nhiều cách giải thích. Thứ nhất hiện tượng đó có phần được phóng đại lên, bởi ít nhất tôi đã đến một lần quán “cháo chửi” ở Lý Quốc Sư. Tất nhiên tôi không nghe thấy lời chửi nào (có thể do tôi may mắn). Tôi cũng từng đi ăn phở xếp hàng, hay phở tự phục vụ (tức là khách phải tự chạy đến quầy phở để bưng bát phở về bàn của mình). Tôi cũng từng ăn phở trả tiền trước (nếu không trả, chủ phở gọi giật lại bằng một giọng rất chi là khó chịu, xấc xược).

Tất nhiên, ban đầu ai cũng khó chịu về cung cách phục vụ “tinh tướng” ấy. Nhưng sau khi khó chịu mà được ăn ngon, người ta cũng tươi tỉnh lại phần nào. Tôi cũng vậy. Và tôi bắt đầu quan sát. Tôi nghiệm ra rằng, hầu hết thực khách đến các cửa hàng này đều là người quen (cá biệt có những người khách xa đến vì tò mò, nhưng ít thôi). Và vì là người quen, nên họ quá hiểu quy luật bất thành văn trong cách phục vụ ở những quán này. Và khi họ hiểu rồi thì họ cứ lạnh lùng “tuân thủ” theo các quy tắc này thì mọi việc hết sức dễ chịu: chẳng hạn với phở trả tiền trước, bạn cứ bước vào, xỉa ra 30 ngàn (nếu cả quẩy hình như giờ đã là 35 ngàn) chẳng cần phải nói gì cũng được, và cầm một bát quẩy đi vào bàn, là nhanh như cắt, đã có một người bưng bát phở nóng hổi đặt xuống trước mặt bàn của bạn. Trên mặt bàn đã có đầy đủ những gia vị cần thiết, không bao giờ thiếu thứ gì.

Tôi nghiệm ra rằng, tất cả những khách quen của cửa hàng đều hài lòng với cách phục vụ tự động như cái máy vậy (chẳng bao giờ được chào hỏi, mời mọc, còn khách thì không bao giờ phải nhiều lời, phải gọi phục vụ cả).

Chỉ có những khách mới, lớ ngớ, không hiểu “luật bất thành văn” của quán mới chịu “quát, mắng, chửi” (nếu có) mà thôi.

Ở đây nếu nói chủ hàng cố tình quát mắng khách hay nhân viên để tạo “thương hiệu” thì nhầm to. Chẳng qua vì đồ ăn ngon, khách đông, phục vụ quá tải, cho nên họ đành phải đặt ra quy định bất thành văn như vậy để đơn giản hóa quy trình phục vụ.

3. Đó chính là cái lý do mà các hàng ăn có cách phục vụ thiếu “xởi lởi” vẫn cứ tồn tại, đông khách. Trong sự phi lý của nó có cái hợp lý. Trong sự khó chịu của cung cách phục vụ ấy có sự dễ chịu của nó (nếu anh hiểu).

Hà Nội vẫn là như vậy đấy.

NGÔ KHỞI

Nguồn:
Một cách nhìn khác về “bún mắng”, “cháo chửi”




10/7/11

TRI THỨC VỀ RƠM RẠ



“Chăn trâu đốt lửa trên đồng

Rạ rơm thì ít, gió Đông thì nhiều

(thơ Đồng Đức Bốn)

Năm nào hiện tượng khói lạ cũng diễn ra, bao trùm Hà Nội. Năm nào cũng gây xôn xao dư luận. Năm nào các nhà khoa học cũng đăng đàn, người thì báo đó là hiện tượng khói mù quang hóa (nôm na là do ô nhiễm không khí, khi có hiện tượng nghịch nhiệt, nóng lạnh giao thoa thì xuất hiện). Còn nhiều nhà khí tượng học, nông học thì lại giải thích đơn giản là do đốt rơm rạ.

1. Vậy sự thực là thế nào? Cái làn khói bao trùm thành phố lễnh loãng như sương kia là do bụi bẩn ô nhiễm độc hại, hay chỉ đơn thuần là do bà con đốt đồng? Chưa kết luận. Và chẳng ai kết luận. Nói gì đến việc nghiên cứu xem hiện tượng đó độc hại đến đâu, khuyến cáo bà con phải đeo khẩu trang than hoạt tính như phòng cúm gia cầm, hay là tha hồ hít thở để mà thêm nhớ mùi khói bếp rơm rạ một thời hay thêm thèm hàng thịt chó chuyên thui rơm, quạt chả? Chẳng ai chính thức khuyến cáo!

Lạ thật, Thủ đô có mấy vạn nhà khoa học, bao nhiêu cơ quan nghiên cứu, bao nhiêu trạm quan trắc thế mà bao năm vẫn chấp nhận gọi nó là “khói lạ”. Tại sao không có ai chịu khó mở cửa sổ phòng điều hòa, nhìn ra cuộc sống, hớt lấy một lọ peniciline khói đem vào phòng phân tích xem nó là khói rơm rạ hay là bụi bẩn ô nhiễm (cái đó thiết tưởng không khó, mà ra đáp số chắc chắn). Để cuối cùng hiện tượng lạ cứ treo lơ lửng trên đầu mình như thể không gian thành phố này không phải của mình.

Còn theo cảm quan của tôi là người gót chân vẫn dính bùn thì đó là khói rơm rạ. Quý vị ở thành phố ít xem đốt đồng nên không biết một đụn rơm nó sinh ra bao nhiêu khói đâu. Nhớ có lần đi trên QL32, người ta đốt rơm ven đường mà mấy chục mét, xe cộ dò dẫm, mất phương hướng kể cả khi đã bật đèn sương mù (cứ như đi lên mây). Hoặc giả quý vị đi qua mạn Phù Đổng từ cầu Phù Đổng ra QL1A thỉnh thoảng sẽ thấy khói rơm rạ mù trời.

2. Hóa ra ta là nước nông nghiệp, dân ta gần 80% là nông dân, bố mẹ ta đa phần ở nông thôn, nhưng cái sự hiểu biết của ta về rơm rạ đồng áng vẫn còn mù mờ lắm.

Bác tôi là kỹ sư nông nghiệp thường nói đùa: Chúng mày học đại học cả rồi mà vụ chiêm, vụ mùa là thế nào có biết không? Tôi đem câu đố này ra đố, khối người không biết thật. Hoặc có biết thì cũng không chỉ mang máng, lẫn lộn giữa hai vụ với nhau; còn lịch gieo, gặt vào quãng tháng mấy thì đại đa số là mù tịt. Gạo cao cấp thơm dẻo có quanh năm, cho nên bát cơm lúa mới thơm lừng mùa gặt thành ra không còn là trải nghiệm hạnh phúc nữa. Người hiện đại ngày càng xa rời thiên nhiên, đồng ruộng, hoặc chỉ thích thiên nhiên, đồng ruộng là vật trang trí, là trang trại, “thái ấp” để sở hữu...

3. Âu mỗi năm có “khói lạ” thế này cũng là dịp để ta biết gốc gác của ta ở đâu, bà con nơi đồng áng đang sống và sinh hoạt thế nào, và cũng để “kiểm tra nhanh” sự sẵn sàng ứng phó với các hiện tượng bất thường trong tự nhiên của giới khoa học nước nhà.

Đông Kinh

Nguồn:
Nhà khoa học và tri thức về rơm rạ



12/6/11

"THÁNG SÁU NÓNG NHƯ ĐỔ LỬA..."


Những ngày trời rất lạ. Nắng mang theo hơi nóng xuyên qua khung cửa sổ, đánh thức vạn vật trong phòng dậy từ khi chiếc kim to mập trên đồng hồ mới chậm chạp nhích dần đến con số 5.

5 giờ chiều, sau gần 12 tiếng liên tiếp nung nóng mặt đường, nhà cửa, cây cối, nắng nhạt dần. Nhưng đừng nghĩ như thế là trời đã mát - ai không phải vì việc chẳng đặng đừng mà lao ra đường giờ này sẽ có cảm giác của một con gà bị đem đặt vào lò vi sóng. Nguyên nhân là vì mặt đường bê tông bên dưới ta đang đi, rồi xe cộ, nhà cửa hai bên đều đang nhất loạt ùn ùn nhả ra thứ hơi nóng kinh khủng mà chúng đã giữ suốt nửa ngày trời trước đó.

Hơi nóng hầm hập, mồ hôi dính người, bụi đường bẩn thỉu, khí thải từ dòng xe cộ đổ ra đường trong giờ tan làm khiến không khí trước mặt nhìn như bị một sức mạnh vô hình nào đó vặn vẹo đến biến dạng... Người ta cứ cắm cúi chịu đựng chừng đó thứ cực hình, để nhích dần lên giữa dòng xe cộ đông nghẹt, mong cho mau mau, chóng chóng trở về nhà với chiếc điều hòa (hoặc quạt điện) chạy vù vù, với một ly nước mát và một chiếc khăn ướt nước lạnh...


Thế rồi trong một phút chốc, hơi nóng như không còn nhả ra nữa, tiếng ồn từ dòng xe cộ náo nhiệt như không còn tồn tại nữa, bụi đường như không bốc lên nữa, mồ hôi như không còn bết bát nữa... Tất cả đã bị xóa đi không thương tiếc trong những giọt nước mưa to đùng và buốt lạnh đang rào rào đổ xuống từ trời cao.

Khi ấy, nếu may mắn đang được ở yên ấm trong nhà, đừng quên mở một cánh cửa ra mà nghe mùi đất đang len lỏi xộc vào. Nếu kém may mắn hơn, thì hãy dừng lại trú chân ở đâu đó đợi cho mưa ngớt rồi hãy về. Chỉ trong có mấy buổi chiều tối mưa giông như thế, mà Hà Nội đã xảy ra bao tai nạn thương tâm...


Cơn mưa nặng hạt như một chiếc chổi lá trong tay người lao công khổng lồ. Xoẹt, xoẹt, xoẹt... và không còn chút dư vị nào của một ngày nắng nóng chói chang. Hạnh phúc nhất là những người nghèo, rồi thứ đến là những người đã có một ngày lao động vất vả. Họ thở phào vì đêm nay, trong cái không khí se se lạnh ấy, họ sẽ tìm được một giấc ngủ ngon mà không lo chuyện điện bất thần bị cắt, hay phải nằm ngủ mê mệt trong hơi lạnh nhân tạo của những chiếc điều hòa ngốn điện trong thời buổi giá điện lại đang đòi được tăng.

Để rồi đến sáng hôm sau, cái vòng quay thời tiết kì lạ đó lại lặp lại theo một chu kỳ chính xác đến ngạc nhiên. 5 giờ sáng nhé... 5 giờ chiều nhé... 1 tiếng đồng hồ sau nhé... Và rồi chúc ngủ ngon nhé...!

Tôi viết những dòng này tại cơ quan lúc 5 giờ chiều. Chuẩn bị khóa cửa phòng, bước ra đường để hiến thân một con gà quay trong chiếc lò vi sóng khổng lồ ngoài kia. Trong khi mải miết quệt những giọt mồ hôi nhễ nhại trên trán, tôi sẽ mơ về một trận mưa nữa đêm nay. Một trận mưa rào của những ngày đầu Hạ. Cho “tháng Sáu nóng như đổ lửa” đang về...

TEPPI

Nguồn:
“Tháng Sáu nóng như đổ lửa…”



10/3/11

ĐỒNG TIỀN KHÔN DẠI


Bát phở bò Kobe có giá 750.000 đồng

Chuyến đi Hà Nội lần này “ấn tượng đỉnh cao" (cụm từ người Hà Nội đang thích dùng, và bây giờ hình như mình cũng thích dùng), gói gọn trong cái long lanh sang trọng của tô phở.

Chỗ ngồi ăn phở sang, sang hơn phở “thương hiệu", nhưng cái sang nó toát lên từ những thực khách đang ngồi kín các bàn, bàn nào bàn nấy cả đại gia đình ông bà con cháu, bàn vợ chồng trông dáng đại gia hay bàn những cặp tình nhân mà từ họ toát lên những chuẩn mực của trang phục.

Trước khi đón mình ăn sáng, bạn bảo hôm nay chiêu đãi phở ngon đặc biệt. Mình hoảng sợ nghĩ đến “phở quát". Đến khi ngồi trước tô nước dùng bốc khói mà bản thân khách ăn quanh mình cũng đã khẳng định đẳng cấp của tô phở rồi, vẫn chưa hết run vì cái giá khủng của tô phở.

Vậy là hôm nay diện kiến phở bò Kobe Nhật Bổn (nghe nói thế, chứ mình làm sao phân biệt được bò nhập khẩu từ Úc hay New Zealand), nhờ tình cảm nồng thắm của người bạn chính danh gốc Hà Nội.

Cô bạn cười tít trước ánh mắt bần thần của mình, bảo thôi đừng nhớ căn gác ám khói, chật chội và ồn ào ở phố Hàng Buồm nữa. Đúng là mình đang nghĩ đến nó. Tô phở gia truyền quen mắt với hành xắt vụn, thịt tái ép mỏng và nước không béo, bà chủ quán cũng không béo, và đặc biệt nhất là không quát khách và người giúp việc.

Nhưng phở bò Kobe (cứ cho là thế), ngoài chuyện nó được ăn bằng thức ăn bổ dưỡng như bắp non, lúa mạch, lâu lâu uống bia thay nước, tắm nước nóng, nghe nhạc Mozart, Chopin để thư giãn thì chủ hàng phở cũng không tiếc công cho bát phở phú quý này trọn vẹn thêm bằng cách chăm sóc ân cần, tỉ mỉ cho khách.

Tô phở này có giá và phong cách phục vụ thật “khiêu khích"! Chẳng thế mà nó nườm nượp khách vào ra, có người vẫn giữ thói quen ăn phở bò Kobe và đi khỏi nhà hàng với cái tăm trên miệng, lại có những tô phở được bỏ lại một phần nhỏ trên bàn ăn, đúng cái cách vẫn ăn uống, dù hôm nay có là bò Kobe thì thanh lịch vẫn phải thanh lịch.

Mình ăn tô phở đắt giá, kèm vào tất cả những thứ loay hoay chuyền vần xung quanh. Mình đang tự cười, con bò nghe nhạc Chopin và mình thì ăn thịt nó bằng cách nhúng tái vào thứ nước dùng trong vắt truyền thống Việt. Rồi mình hết cười khi nhớ đến 200 con bò xuất chuồng từ tỉnh Thái Nguyên bị phát hiện nguồn gốc béo đẹp khác thường là nhờ ăn rác thải.

Thật là những cung bậc nhiều cảm xúc của đồng tiền khôn dại được đầu tư vào đích cuối cùng của một tô phở. Trong lúc người ta vẫn đang bàn bạc và hội thảo làm cho Hà Nội có vị trí xứng danh thủ đô, thì một người Hà Nội (cái này mình đoán chừng qua cách phát âm) giỏi kinh doanh đã bắt được nhu cầu “đỉnh cao phong cách" và mạnh dạn cho ra đời một tô phở phú quý, một phong cách chi tiêu mới, sang hơn phở bán trên đất Mỹ, vì phở Cali mới chỉ 7USD mà nhiều Việt kiều bảo ít dám ăn vì…tiếc tiền!

Thế nên mình mới trộm nghĩ, cô bạn mời mình ăn phở “ triệu phú" là để bày tỏ tình cảm với bạn. Còn người ta bán phở ấy là bán cho người tiêu dùng đang khát khao phong cách sống khác, và dễ nhất là cung cấp cho họ cách tiêu tiền độc đáo này.

Mình lại lẩm cẩm nghĩ ngợi. Thế thì xài sang và xài có lý, cái nào đáng bàn hơn? Cầm đồng tiền trên tay, không đến nỗi như chàng Ngốc trong chuyện tiếu lâm hỏi “Đồng nào mua mắm, đồng nào mua tương", nhưng cái sự tiêu pha khôn dại thì vẫn cứ nghĩ ngợi mỗi ngày.

Mình nhớ ngày nhỏ, khi B.52 Mỹ rải thảm Hà Nội, Hải Phòng thì bỗng nhiên mẹ nói “Tháng 12 là sinh nhật con, mẹ sẽ chở về Hà Nội đãi phở hàng Buồm".

Từ nơi sơ tán, mẹ con mình sung sướng, hồi hộp và đầy lo âu trên chặng đường đi xe đạp ba mươi cây số về Hà Nội ăn phở sinh nhật kỷ niệm mười tuổi.

Sau này sống “sành điệu" hơn, người ta giới thiệu với mình những phở Thìn, phở quốc doanh, nhưng mình cứ trung thành với phố Hàng Buồm. Nghĩ lại cái sự lãng mạn và lạc quan ấy cũng là một phong cách sống từng có ở người Hà Nội.

Cô bạn lắng nghe câu chuyện của mình, mơ màng bảo, vậy thì hôm nay chúng ta ăn phở phong cách mới của Hà Nội, và ngày mai lại đến Hàng Buồm để xài một bữa sáng mang hương vị kỷ niệm.

Mình hỏi sao lại kỷ niệm, bạn chỉ cười, lại nói “Tất cả đã trôi qua lâu rồi, mọi thứ đang dần thành kỷ niệm. Bây giờ chỉ là chuyên khôn dại trên mỗi đồng tiền thôi bạn ơi”.

BÍCH HỒNG

Nguồn:
Đồng tiền khôn dại

27/12/10

AO QUÊ HOA BÈO TÂY VẪN TÍM



HOÀNG VIỆT HẰNG

Thấy mọi người đổ xô đi đặt mua đào bích đào phai ở Nhật Tân, quất Tứ Liên, cá cảnh ở làng Yên Phụ, tôi mới thấy rõ hơi thở mùa xuân đã rất gần.

Rong ruổi tìm về thôn quê, mà vệt đường đi Ba La Bông Đỏ, rẽ trục đường Nam Trung Yên, sang vùng Láng Hoà Lạc của Hà Nội mới, đã làm tôi vô cùng kinh ngạc. Khu đô thị nhà cao tầng với toàn đường đôi trải bêtông, không tìm đâu ra con đường đất phân trâu, nhà quê của ta nữa. Hơi thở của phố thị lan rộng, sự tăng tốc tới chóng mặt.

Cho dù đến mùa, hoa muồng vẫn vàng, bằng lăng vẫn tím, hoa sưa vẫn trắng, hơi thở của đời sống đô hội cũng không dừng lại với ao quê có hoa bèo tây tím biếc. Giật mình nhớ một câu nói cũ, gần ba mươi năm trước của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, ông đã chạnh lo một ngày nhà tầng sẽ mọc cao khiến hồ Gươm nhỏ như ao quê, cầu Thê Húc nhỏ như cầu ao mà mẹ ta vẫn ngồi vo gạo.

Nhà quê lên thành phố. Nham nhở bên những thửa ruộng chắp vá là những xưởng mộc, cửa hàng nội thất, dịch vụ thời trang, trạm xăng. Cửa hàng uốn tóc, xăm mi và sửa móng tay. Đồng bãi đã tan hoang cả. Một lớp người trẻ học hành thành đạt đã xây những ngôi nhà theo phong cách châu Âu, thay vào chiếc ao bèo tây hoa tím là những chậu cây cảnh, có nhà vẫn giữ được cái bồn cây ngập nước và nổi lên một cụm bèo tây để ở giữa sân. Ao ở làng chẳng còn cái nào. Giếng đất, ao quê, hoa bèo tây tím biếc chỉ còn trong ký ức, trong hơi thở dài của người đứng tuổi. Nhưng văn minh tiến bộ của loài người thì lại thấm rất chậm ở vùng thôn quê ven đô.

Đáng ngại nhất những dịch vụ làm đẹp, sửa móng tay, uốn cong mi, sơn sửa móng tay móng chân, sẽ lấy đi rất nhiều vẻ mộc mạc, chất phác quê mùa của bao thôn nữ làng quê bỗng một ngày thành thị tràn vào. Nhiều bà mẹ chưa kịp dạy con mặc váy ngắn phải ý tứ đi đứng khép chân, cách ăn tiệc chốn đông người đừng nhai chóp chép, đừng ngậm tăm ở miệng khi ra đường, đừng hoa chân múa tay trước người già khi thưa chuyện.

Hà Nội mới, mới hơn một tuổi, bao nhiêu nhà cao tầng mọc lên, văn minh đô thị ào vào làng quê ta, mà có vùng, người dân thôn quê vẫn chưa chuẩn bị tinh thần cho việc hiến ruộng cho dự án, bán ruộng để xây nhà bêtông. Ngày mai không còn ruộng, không còn trồng màu, trồng hoa, họ sẽ làm gì?

Năm con mèo, nhiều người tính chơi bể cá trong vườn, có nhà tính cả đến cái ao bèo. Nhưng họ chưa tính đến hoa bèo tây tím cũng vượng khí trong sân. Nếu như ở vùng Gia Thuỵ, Gia Lâm còn tới vài cây số trồng vườn chuối tiêu, vài cây số vùng đê quai Phùng xanh vạt chuối, xanh vườn cam Canh và bưởi Diễn thì hà cớ gì ta phải quên đi những cái ao bèo. Người nông dân Hà Nội mới đã sớm tính, để có ao bèo tây tím trong các khu nhà biệt thự, nhà và hành lang chung cư cao cấp.

Những người nông dân gốc chưa quên đi hồn thu thảo của ao quê. Cánh bèo hoa tím đã bắt đầu tiếp thị ở một chợ phiên Hà Đông, chợ Bưởi Cầu Giấy, chợ cóc ở gần cửa ô Thanh Bảo rất gần bến Kim Mã, cái cửa ô thứ sáu của Hà Nội cổ xưa từng bị lãng quên trong nỗi nhớ cửa ô, lại bắt đầu xuất hiện những cửa hàng bán ký ức nhà quê, những chậu bèo tấm và bèo tây hoa tím.

Nguồn:
Ao quê hoa bèo tây vẫn tím
Entry liên quan:
NGƯỜI ĐÀN BÀ NGẮM VỆT TRĂNG QUA CÁNH CỬA


20/10/10

KIỂM NGHIỆM VĂN HÓA



Nhà văn Nguyên Ngọc

Mỗi dân tộc, mỗi nền văn hoá có tỷ lệ vàng của riêng mình. Hà Nội có cái tỷ lệ vàng ấy, của sự nhỏ nhẹ, cân đối, thanh lịch, tinh tế, do bao nhiêu thế hệ cực kỳ giỏi giang tích tụ, gìn giữ, để lại, mà nay thế hệ chúng ta đang đánh mất, phá tan bằng sự huênh hoang thô lỗ.

Có lần tôi đọc được tin này trên báo mà cứ phải suy nghĩ: trong giải bóng đá thế giới, hình như là ở Pháp, sau một trận đấu, những người dọn vệ sinh trên các khán đài kinh ngạc thấy ở chỗ cổ động viên người Nhật và người Hàn Quốc ngồi, không những không cần dọn bất cứ chút rác nào mà tại đó còn sạch hơn trước trận đấu!

Không thể không nghĩ ngay đến chuyện ở ta mới đây, mười ngày đại lễ Nghìn năm Thăng Long để lại cho Hà Nội tự hào và hứa hẹn phát triển chưa thấy đâu, chỉ thấy một bãi rác khổng lồ, bẩn thỉu, ê chề!

Quả thật đã đến lúc không thể không nghĩ rằng đối với Hà Nội những thói xấu như vậy đã thành hệ thống, thành bệnh kinh niên, hỡi ôi, thành nếp sống, nghĩa là đã đi vào tận tâm khảm mất rồi, và phải đặt câu hỏi vì sao mà nên nông nỗi này? Và phải tìm cách trả lời cho ra, nếu không thì chắc chắn không hy vọng gì có một Hà Nội phát triển như ta vẫn mong và lớn tiếng rêu rao. Sẽ không có bất cứ phát triển thật sự nào trên nền tảng một văn hoá đã tệ hại đến mức ấy. Đã đến lúc người Hà Nội, những người yêu và tin Hà Nội, từng tự hào về Hà Nội, những người lãnh đạo Hà Nội trước hết đương nhiên, cần nghiêm túc tự hỏi, và mọi người thử cùng nhau suy nghĩ và tìm cách trả lời.

Tôi cũng xin thử nói đôi điều về chuyện này.

Có phải có một điều gì đó không cách xa nhau lắm, không thật sự khác nhau giữa cái diêm dúa, phô trương, ồn ĩ, xa xỉ, phản cảm, cả vô cảm nữa (trước đại lũ miền Trung) của lễ hội… với cái bừa bãi xấu xa đáng buồn ngay sau lễ hội. Cái này chỉ là tiếp tục lôgíc của cái kia. Theo cách nào đó thì cả hai thứ ấy là đồng bộ, là cùng một văn hoá, một xuống cấp văn hoá. Cũng là đồng bộ với văn hoá quyết chí trở thành thủ đô rộng lớn thứ nhì hay thứ ba thế giới – chỉ sau Tokyo (Tokyo đông đến thế là từ tác động của công nghiệp hoá một thời; nhân loại văn minh ngày nay đã biết rằng hạnh phúc nhất là được sống trong những thành phố nhỏ chứ không phải những thành phố khổng lồ), đồng bộ với các cuộc đua tranh kỷ lục Guiness nhố nhăng, những đường gốm sứ dài nhất thế giới, những nhà cao nhất, đại lộ rộng nhất và dài nhất, bánh chưng, bánh giầy cũng lớn nhất nước, lại có cả tượng Lý Thái Tổ đội mũ Tàu… Tốn kém, kỳ dị bao nhiêu, mà rồi để làm gì? Chẳng lẽ Thăng Long Hà Nội sau nghìn năm đã trở thành trẻ con đến mức ấy để lao vào các trò ganh đua vớ vẩn?

Tôi có một chị bạn hoạ sĩ đã bỏ ra suốt mười mấy năm ròng chỉ để làm mỗi một việc: chăm chú say mê đo tìm tỷ lệ các bộ phận trong những ngôi chùa Việt cổ, và chị bảo khi đã tìm ra được cái tỷ lệ ấy rồi thì vẽ bất cứ cái gì cũng đều ra Việt, không thoát đi đâu được. Một trong những bí quyết của cái đẹp, cũng là của văn hoá, là tỷ lệ. Đó là tỷ lệ trong không gian cư trú, trong nhà cửa của con người, trong trang trí, cả trong lối sống, trong cử chỉ, trong lời ăn tiếng nói, trong tâm thức, trong tâm hồn… Mỗi dân tộc, mỗi nền văn hoá có tỷ lệ vàng của riêng mình. Hà Nội có cái tỷ lệ vàng ấy, của sự nhỏ nhẹ, cân đối, thanh lịch, tinh tế, do bao nhiêu thế hệ cực kỳ giỏi giang tích tụ, gìn giữ, để lại, mà nay thế hệ chúng ta đang đánh mất, phá tan bằng sự huênh hoang thô lỗ. Mất đi cái tỷ lệ ấy, lao theo những tỷ lệ đua đòi thì sẽ không còn Hà Nội đâu. Ở đời có những cặp đôi rất lạ và rất thú vị: huênh hoang thì đi đôi với thô lỗ; khiêm nhường thì đi đôi với sang trọng. Hà Nội vốn ở trong cặp đôi thứ hai. Rất sang. Rất văn hoá.

Chúng ta vẫn nói đi nói lại bao nhiêu lần rằng dân tộc đã tồn tại được qua tất cả các thách thức khốc liệt và uy hiếp nặng nề, thâm hiểm nhất là vì văn hoá, nhờ văn hoá; nhưng hình như lại không thật sự lo sợ trước sự xuống cấp văn hoá hiện nay, thể hiện chẳng hạn trong sự phô trương loè loẹt suốt mười ngày và trong cuộc tàn phá kỳ quặc, vô lý sau mười ngày ồn ào vừa rồi. Kỷ niệm một nghìn năm Thăng Long là một kiểm nghiệm, kiểm nghiệm trước hết về chính văn hoá ấy. Và kết quả kiểm nghiệm thì quả đáng buồn, thậm chí báo động.

Tôi nhớ lần đầu tiên ra Hà Nội, tôi đi tìm mãi tháp Rùa ở hồ Gươm, cứ ngỡ nó to lớn lắm. Đến khi “tìm thấy” nó, và rồi ngày ngày được nhìn ngắm nó mới ngộ ra và phục Hà Nội quá: hãy thử hình dung nếu tháp Rùa lớn hơn chỉ cần hai hay ba lần thôi thì sẽ ra sao? Hà Nội có một hồ Gươm đẹp đến mê hồn, vì ở đấy có một tháp Rùa thật nhỏ, nhỏ một cách thật nghệ thuật, nhất là trong những ngày lãng đãng sương mù và phố xá thì vắng. Hà Nội đẹp vì nó nhỏ. Lớn nữa, lớn quá thì nó sẽ hỏng…

Một cái nhìn bi quan chăng? Cũng còn tuỳ. Tuỳ ở chỗ có dám nhìn thẳng và trung thực hay không.

Nguồn:
Kiểm nghiệm văn hoá

Entries liên quan:
HÀ NỘI MÌNH... CHÁN!!!
HÃI HÙNG NGƯỜI HÀ NỘI
SAO MI LẠI TRẮNG MUỐT NHƯ VẬY NHỈ?
LẠI BÀN VỀ VĂN HOÁ NGƯỜI HÀ NỘI
HÀ NỘI ẢO MỜ
20 TRIỆU CHỨNG CỦA NGƯỜI THỦ ĐÔ



14/10/10

TÔI ĐANG ĐẾM MÙA THU HÀ NỘI



Hải Trang

Trải trong không gian là những dải vàng buông. Đó không phải màu của nắng mà là sắc của những chiếc lá đầu mùa đang rụng và nối nhau rơi xuống lòng đường. Theo dòng người hối hả, lá rụng cuốn bánh xe người qua lại. Có ai hay, mùa thu vừa về một chớm…

Hà thành - hoa học trò còn nép vài bông sau những tán lá nhưng không đủ để níu cả mùa hè. Trời đã dịu hơn, cái oi nồng cũng lắng dần xuống. Người và xe mải miết lưu thông trên phố. Những lo lắng của cuộc sống khiến người ta bị cuốn đi và không đủ thời gian để nhận ra một khoảnh khắc mới của thời gian đang lấn dần từng góc phố. Có thể nói dấu ấn của sự biến chuyển bốn mùa, xuân, hạ, thu, đông, không nơi nào trên đất nước Việt Nam rõ rệt như ở Hà Nội.

Cũng bởi vậy mà chẳng có gì là ngạc nhiên khi đất trời còn chưa thở hơi sương mỗi sớm mà hàng cây bên đường đã bắt đầu chuyển sắc. Phải chăng vì thành phố khoác trên mình màu của trời - cây và nước mà thiên nhiên xanh vốn nhạy cảm với từng thay đổi nhỏ nhất của thời tiết. Khi tháng Tám chưa đủ để lành lạnh khí thu, nắng mới nhạt màu một chút mà lá cây đã như trải trên đường sắc thu mênh mang. Thu về chưa đủ làm người ta rùng mình nhưng cũng đã khiến cho những hàng cây bên đường bắt đầu trút lá. Phố vẫn ngợp màu xanh, nhưng sắc vàng đã rơi dần từng dải, những chiếc lá già rụng xuống để trơ lại trên cây một sắc nõn xanh non. Nhưng chẳng mấy chốc, tất cả sẽ rực lên một màu vàng huyền diệu.

Những cây cổ thụ lớn trong thành phố hầu hết là sấu và xà cừ. Hai loại này lại rất nhạy cảm với thời tiết. Điều khiến ta ngạc nhiên nhất chính là sự che dấu bản thân khéo đến kì lạ của những chiếc lá bắt đầu ngả màu. Nhìn từ xa, người ta vẫn chỉ thấy những tán cây xanh. Vậy mà trong không gian, vô vàn những lá vàng thả mình thẩn thơ rơi xuống. Bằng lăng vẫn tiếc chùm quả khô cuối mùa, nhưng sắc diện cũng đang chuyển màu tím tái. Cây bàng đã đỏ cuống lá đầu cành.

Thêm một chút hanh hao nữa, lá khô xào xạc vỡ dưới chân người. Thu Hà Nội giống với sắc màu trong bức tranh Mùa thu vàng của LêVitan. Thu Hà Nội chỉ thoảng qua một chớm, ấp ủ mùa rồi một ngày nọ sẽ bừng lên rạo rực. Hà Nội không cần một bản nhạc để cất lên khúc giao mùa, chỉ cần sắc màu biến chuyển. Một chớm thu chưa làm cho Hà Nội có những thay đổi đặc biệt mà mới chỉ là những rung cảm của thiên nhiên mà thôi. Có người cho rằng mùa thu bao giờ cũng buồn, bởi vậy thi nhân lấy thu làm cảm hứng: Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Thế nhưng mùa thu đúng ra là mùa vui, là thời điểm lá mang nhiều vũ khúc nhất, với những sắc màu mỗi ngày một lạ.

Có thể một thoáng lạnh đấy, một thoáng sương mờ, một chút hanh hao và chút bâng khuâng khó tả. Phố phường như bức tranh sơn mài nhiều màu sinh động: thoắt đấy còn xanh, một chớp mắt chuyển màu ngai ngái tím và rồi ào ào đổ lá bất cứ lúc nào. Từ khi thu về, đêm đêm tiếng quét rác hình như nặng hơn. Tôi đi tìm một khoảnh khắc thu độc đáo khi bất chợt nhìn thấy chiếc xe của cô công nhân vệ sinh đuờng phố chất đầy lá vàng. Không biết biết mùa đang được đưa đi hay đón về. Hay đó là sự chuẩn bị cho một màu mùa mới.

Hà Nội nay có thêm nhiều những con đường mới nhưng không phải bất kì nơi nào cũng thấy những sắc màu giống nhau. Một buổi sớm yên bình, không khí trong lành hiếm hoi bên hồ và cây cối khiến một cụ già bỗng dừng lại, hít một hơi thật sâu và mỉm cười hát một bài hát về Hà Nội xưa. Phải chăng mùa thu làm cho người ta thêm nhẹ nhõm và vui sống giữa lòng Thủ đô yêu dấu.

Thu chớm về từ những góc phố rất xưa. Những bon chen phố thị ồn ào không lắng đi bởi sự đổi thay của thời tiết. Ngỡ rằng chỉ có thi nhân mới đợi thu sang, nhưng thực tế phố phường vẫn là nơi diễn ra những tín hiệu mùa tinh tế nhất. Thời gian chảy trôi không ngừng nhưng có một khoảnh khắc nào đó vừa ngưng lại trên đốm vàng đầu tiên của cây lá. Đó là điểm khởi đầu để kéo về cả mùa thu. Một sáng thức dậy, hơi co mình hơi sương và tự hỏi không biết thu đã về từ khi nào thế nhỉ ? Bước chân thời gian lặng lẽ không báo trước nhưng dấu tích của nó đã lưu lại trên sắc trời, màu nước, và cả phố phường náo nhiệt.


Entries liên quan:
NHỮNG NGÔI BIỆT THỰ CỔ HÀ NỘI
20 TRIỆU CHỨNG CỦA NGƯỜI THỦ ĐÔ
Ở HÀ NỘI NHỚ HÀ NỘI
MÃNH LỰC CỦA MÙA THU
LỖI HẸN VỚI MÙA THU



27/9/10

Ở HÀ NỘI NHỚ HÀ NỘI



Từ Huy

Ngồi trước hồ Tây mà nhớ hồ Tây. Ở trong gió hồ Tây, trong hơi nước hồ Tây, mắt tắm trong sóng hồ Tây, mà nhớ hồ Tây. Hoàn toàn không giống như người du khách của Nguyễn Bính, đến xóm Ngự Viên tiêu điều của hiện tại để nhớ về Ngự Viên huy hoàng trong quá khứ.

Mà đây là một nỗi nhớ đi trước nỗi nhớ? Nỗi nhớ đến quá sớm? Dự cảm về nỗi nhớ? Biết gọi như thế nào cho đúng? Đây chính là cái cảm giác đã từng xuất hiện vài lần trong đời: cảm giác về một hiện tại sắp trở thành quá khứ, hay đang trở thành quá khứ. Cảm nhận về tính chất quá khứ của hiện tại. Cái cảm giác xuất hiện khi ngồi đối diện một người bạn và biết rằng khoảnh khắc này khó còn có thể tái lặp trong một khoảng thời gian chưa thể xác định được. Một cái gì bóp nghẹt trí não khi đôi mắt ghi lại dáng hình của người ấy, tai ghi lại giọng nói, và đồng thời biết rằng giọng nói đó, dáng ngồi đó đã trở thành kỷ niệm ngay khi đang được nắm bắt. Quá khứ vắt qua hiện tại. Quá khứ nằm trong lòng hiện tại.

Đó là khi một quyết định biến mất được thực hiện. Biến khỏi một thành phố. Điều đó chẳng có gì đặc biệt. Lại càng chẳng có gì đặc biệt khi mà người ta từng biến mất ngay khi còn đang tồn tại trong thành phố đó. Hugo đã từng miêu tả việc Paris nuốt chửng Jean Valjean vào cái bụng khổng lồ của nó như thế nào. Jean ở đó, nhưng không ai biết đến ông cả; ngay cả người sống bên cạnh ông, người mà ông hết mực yêu quý, nàng Cosette xinh đẹp ấy, cũng không biết ông thực sự là ai; thế thì khác nào ông đã biến mất khỏi đó. Trong trường hợp này ranh giới giữa tồn tại và biến mất rất mơ hồ.

Giờ đây hẳn nhiên Paris đã là quá khứ. Nhưng ngay lúc đó, khi thả bộ dọc sông Seine cùng cô bạn gái mắt xanh, hay khi chạy dọc Lối đi xanh (Coulée verte) được bao bọc bởi các luống hoa hồng vàng trắng đỏ với nhiều gam khác nhau xen cùng vô số loại hoa khác, hay khi lắng nghe tiếng chân mình dạo hờ khúc nhạc hẫng trên đám lá rụng ở một góc khuất vắng trong vườn Luxembourg cùng người bạn văn chương, rồi khi cùng một người bạn khác ngắm các màu sắc không ngừng biến đổi trong rừng Fontainebleau, Paris cũng đã là quá khứ rồi. Những hạt của quá khứ trộn lẫn không khí phủ tràn màng phổi.

Hà Nội cũng bắt đầu trở thành quá khứ. Hồ Tây có vẻ rộng hơn và gió hồ bắt đầu mang theo thông điệp rõ rệt hơn. Những vỉa hè hở hoác, nứt toác – triệu chứng của căn bệnh hình thức hay hậu quả của những mánh lới kiếm tiền thời hiện đại – kể lể với những gót giày về bao vết thương của chúng. Thành phố ngàn năm có xá chi mấy cái vỉa hè vài ngày tuổi. Có ai hỏi xem những vỉa hè ấy, chúng muốn gì; có ai hỏi xem Hà Nội muốn gì khi quyết định xây dựng nhà này ở đây, nhà nọ ở kia, khi quyết định quét vôi, sơn tường cho phố cổ?


Nếu người ta hỏi Hà Nội để biết nó muốn gì thì có lẽ thủ đô này đã có một diện mạo khác, có lẽ các đường phố của Hà Nội đã không biến thành sông suối mỗi độ mưa về. Hình như người ta quên rằng Hà Nội có một tâm hồn. Hà Nội cũng là một chủ thể. Hà Nội có tâm tư nguyện vọng của mình. Mà để tri nhận một tâm hồn, nhất thiết phải có một tâm hồn.

Hồ Tây vẫn khoáng đạt. Cái khoáng đạt của tự nhiên mà con người khó lòng xóa bỏ nổi. Nó mang lại cảm giác thông thoáng cho toàn thành phố. Gió hồ cố gắng xua đi cái ngột ngạt oi bức khói bụi tích tụ trên bầu khí quyển đặc thù của Hà Nội. Hồ Tây khác hồ Gươm. Hồ Gươm tĩnh như một biểu tượng bị sử dụng. Hồ Tây tự do và tự nhiên, cho dù cách bài trí của hệ thống đường ven hồ càng ngày càng tước đoạt mất vẻ tự nhiên của nó, con người chỉ biết mình muốn gì, không cần biết hồ muốn gì.

Hồ Tây cùng sông Hồng thanh lọc cho Hà Nội, giữ cho Hà Nội tính chất phơi phới. Hơn thế chúng còn áp đặt sự hiện diện của nước. Hẳn rồi, vì với sông Tô Lịch hay với một số hồ khác, người ta tránh nhắc đến nước. Mức độ ô nhiễm khiến người ta thà đừng nhắc đến nước của những nơi đó. Sự hiện diện của nước vốn là một cái gì quan trọng trên xứ sở lắm sông suối nhiều ao hồ và hàng ngàn km bờ biển này. Hồ Tây và sông Hồng nhắc cho Hà Nội nhớ rằng dù sao nước vẫn còn đó.

Đang ở Hà Nội mà nhớ một số người Hà Nội/người sống ở Hà Nội. Những người can đảm trong lặng lẽ. Những con người thua thiệt. Nhưng không phải thua thiệt vì hèn kém. Trái lại, sức mạnh của họ là ở đó: chấp nhận thua thiệt để bảo vệ nhân cách, để chống lại sự biến mất ồ ạt của những giá trị truyền thống và những giá trị nền tảng của đạo đức xã hội. Họ cưỡng lại cái dòng chảy xiết của sự băng hoại tưởng chừng như không thể nào cưỡng nổi. Hẳn nhiên, sẽ tốt hơn, nếu họ vừa chống lại được cơn triều cường của sự suy thoái đó, vừa không bị thua thiệt.

Nhiều tài năng ở Hà Nội đã và đang biến mất dưới gánh nặng của cuộc mưu sinh, biến mất ngay chính trong lòng Hà Nội. Có những người thành đạt trong chính sự lãng phí tài năng của họ. Thành đạt và sự phát triển tài năng không hẳn đi đôi với nhau, trong thời này và ở nơi này. Chỉ với một khoảng cách cần thiết và một quãng lặng cần thiết trong đêm là có thể nghe rõ sự sự thất thoát ở cấp độ báo động của nguồn năng lượng trí tuệ vốn rất dồi dào ở Hà Nội. Thất thoát ngay trong lòng Hà Nội. Khắp mọi lĩnh vực, dưới nhiều hình thức, các nguồn năng lượng đang bị lãng phí. Đang biến mất.


Ở Hà Nội mà nhớ những người Hà Nội/người sống ở Hà Nội kiên quyết không đầu hàng hoàn cảnh. Họ cố gắng để bảo vệ năng lực của mình, tránh để mình bị lãng phí, dù thường khi không dứt được cảm giác vô vọng. Và những người kiên quyết sử dụng năng lượng của mình cho hoài bão và lý tưởng. Những người nỗ lực để tạo ra một thực tế khác, thực tế như họ mong muốn. Những người hành động cho các mục tiêu tiến bộ, chấp nhận trả giá. Trả giá đôi khi đồng nghĩa với biến mất, ví dụ như biến mất khỏi hệ thống, hay bị buộc biến mất khỏi cuộc sống tự do bình thường. Nhưng sự biến mất của những người này có khả năng đảm bảo cho sự hiện diện của họ. Cùng với việc biến mất, họ dành cho tương lai một cơ hội. Vì sự biến mất cũng có thể được bảo tồn như bất kỳ một sự vật hiện tượng nào trong đời sống.

Từ cửa kính của cà phê ven hồ, nhìn mặt nước lặng im, tự hỏi rằng đã bao giờ tồn tại một cách thực sự ở thành phố này. Hay những năm tháng chẳng qua cũng chỉ là một cuộc biến mất dài dằng dặc. Biến mất ngay khi đang tồn tại. Cũng giống như phố Hàng Đào hoàn toàn biến mất dưới chồng chất những đống hàng Trung Quốc rẻ tiền. Nếu người ta quan tâm đến việc phố Hàng Đào muốn gì thì chắc nó đã không phải khoác lên mình cái bộ mặt hạ đẳng của hàng Tàu dởm.

Nỗi buồn của một con phố ở trung tâm của thủ đô ngàn năm tuổi, nỗi buồn ấy cũng biến mất như bản thân con phố ấy, biến mất như những phiên chợ vùng quê cũng chồng chất hàng Tàu chất lượng kém. Một quá trình trở thành quá khứ đang bắt đầu. Liệu có đến ngày rồi tất cả sẽ chỉ còn là quá khứ? Liệu có đến ngày xứ sở này cũng sẽ chỉ còn là quá khứ trong hoài niệm của một số người có ý thức về sự vong bản? Vậy ở lại hay biến mất khỏi một thành phố còn có ý nghĩa gì?

Ở Hà Nội mà nhớ đến Vinh. Vinh thì lại là chuyện khác. Biến mất khỏi Vinh là một điều không dễ. Dù không có mặt ở đó cũng khó có thể gọi là biến mất. Phải chăng vì ở đó có ngôi nhà của ba mẹ, ngôi nhà của chính mình? Phải chăng vì lúc nào cũng có thể trở về đó? Ở lại hay rời bỏ thành phố nhỏ ấy cũng không có ý nghĩa gì: không thể biến mất hoàn toàn khỏi nơi đó. Goethe nói: “Nơi tôi cảm thấy mình có ích, đấy sẽ là tổ quốc của tôi”. Và Marcel Brion đã bình luận về câu này: “Chủ nghĩa yêu nước của Goethe thật đẹp biết bao”.

Hẳn rồi. Vinh có nằm ngoài logic này không? Ở lại Vinh, rất có thể sẽ thành ra vô ích, song đi khỏi Vinh lại chưa hẳn đã là không có ích cho nó. Ở Vinh, việc thất thoát năng lượng trí tuệ hầu như không khiến ai phải chạnh lòng. Có vẻ như Vinh chấp nhận nhiệm vụ xuất khẩu chất xám của nó. Thành phố Vinh chưa bao giờ đặt câu hỏi: Vinh sẽ có diện mạo như thế nào nếu nó sử dụng được nguồn nhân lực mà nó cung cấp cho các thành phố lớn?

Khó lòng biến mất khỏi Vinh. Bởi lẽ đi ra khỏi Vinh là để trở về với nó, dưới hình thức này hay hình thức khác.

Ba trăm km từ Vinh ra Hà Nội, những con tàu nối kết mười sáu năm đứt đoạn, mười sáu năm lồng giữa hai lần vào thu. Thu là một đặc sản của Hà Nội. Uống mùa thu cho đến tận đáy ly cà phê Tây hồ, uống cả cho những lúc rồi sẽ thiếu mùa thu.

Đang ở trong lòng Hà Nội đã cảm thấy nhớ những phố dài xao xác heo may.

Hà Nội, 19/8/2010

Nguồn:
Ở Hà Nội nhớ Hà Nội - Tạp chí TIA SÁNG

Ảnh Hà Nội cổ: Tamtay.vn

24/9/10

NGƯỜI HÀ NỘI SÁNG TẠO TỪ MỚI



Hoàng Ngọc Hiến

…Ở Đại học Harvard, theo lời mời của GS Huệ Tâm Hồ Tài, Chủ nhiệm Ban Nghiên cứu Đông Á, tôi nói chuyện với các bạn đồng nghiệp và sinh viên về một số hiện tượng đáng chú ý trong văn học Việt và Tiếng Việt hiện đại. Một sự bất ngờ là điều được cử tọa chú ý và thảo luận sôi nổi là chuyện vui tôi kể về sự sáng tạo từ của người Hà Nội. Tôi nhận thấy cứ vài ba năm người Hà Nội lại sáng tạo ra một từ mới hoặc một cách diễn đạt mới - bao giờ cũng độc đáo, hóm hỉnh và lan tràn rất nhanh trong lời ăn tiếng nói hàng ngày.

Nói về ưu điểm của mình, người Hà Nội nói là “hơi bị” ưu điểm. Người Hà Nội không nói: “Tôi nhảy giỏi” mà lại nói “Tôi nhảy hơi bị giỏi”. Người Hà Nội không nói: “Tôi giỏi tiếng Anh” mà lại nói: “Tôi hơi bị giỏi tiếng Anh”. Người Hà Nội không nói “Đôi giầy của tôi là giày xịn” mà nói: “Đôi giầy của tôi hơi bị xịn”…

Đã “hơi” lại còn “bị”, quả là hai lần khiêm tốn. Nói về ưu điểm của mình mà lại “hơi bị”, dường như có sắc thái hóm hỉnh, tự trào - “Tôi hơi bị nhảy cảm”, “Tôi tiếp thu hơi bị nhanh”, “Trí nhớ tôi hơi bị tốt”, “Tôi hơi bị khỏe”… Với cách diễn đạt này, cả Hà Nội đang trở nên khiêm tốn, mà cũng không hẳn là khiêm tốn.


Cũng thời gian gần đây, người Hà Nội nói gì cũng “vô tư”, cái gì cũng “vô tư”. Mời một người bạn đi uống bia và anh ta nhận lời: “Được, tôi đi ngay! Vô tư!” mà không nhận lời cũng “vô tư”! Khen hay chê đều “vô tư” cả. Bài này tốt, đăng “vô tư”! Bài này kém, không đăng được, “vô tư đi!”; Từ “vô tư” ở cửa miệng người Hà Nội mang nhiều sắc thái: Hóm hỉnh, hồn nhiên, cởi mở…

Dù là tranh thủ hay thách thức người đối thoại, bao giờ cũng vui vẻ, thân tình. Qua lời nói thân tình của người Hà Nội, “vô tư” từ một đạo đức cao xa đã trở nên gần gũi, thoải mái, thỏa đáng… Ai cũng có thể vô tư, cả Hà Nội trở nên vô tư… Một bước tiến thực sự về tinh thần do phép màu nhiệm của ngôn từ.

Buổi hôm ấy, cử tọa bắt mấy từ của người Hà Nội rất nhanh. Lúc ra về nói chuyện với một cháu Việt kiều, thấy cháu nói tiếng Việt không sõi, tôi hỏi: “Cháu có hiểu những điều tôi nói hôm nay không ?” cháu nhoẻn miệng cười và trả lời: “Cháu hơi bị hiểu. Chú nói chuyện vui lắm. Muốn nghe chú nói nữa.” “Vô tư đi!”


Mấy năm gần đây, người Hà Nội thích dùng từ “hoành tráng”. Cái gì cũng có thể “hoành tráng”. Hỏi người Hà Nội “Hoành tráng là gì?” chắc nhiều người lúng túng. Nhưng xem ra họ dùng từ này rất trúng. Bát phở thông thường giá hăm nhăm ngàn, nay có một bát phở giá một trăm năm mươi ngàn thì chẳng có cách nói nào tốt hơn gọi nó là một bát phở “hoành tráng”.

Mỗi người như gửi vào từ này một “sắc thái” riêng thể hiện ở ánh mắt, nụ cười khi nói, và chính “sắc thái” đó làm tăng sức thuyết phục cho ý nghĩa của từ được sáng tạo hồn nhiên. Đây cũng là một biểu hiện của cái vẫn được gọi là “tài hoa” của người Hà Nội.


Nguồn
Cứ vài ba năm, người Hà Nội lại sáng tạo ra một từ mới… - TẠP CHÍ TIA SÁNG



12/9/10

LƯU QUANG VŨ ĐƯỢC VINH DANH NHÂN ĐẠI LỄ



Đúng vào dịp kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội và kỷ niệm 22 năm vợ chồng Lưu Quang Vũ – Xuân Quỳnh qua đời, nhà thơ kiêm kịch tác gia Lưu Quang Vũ đã được Hội Nhà văn Hà Nội tôn vinh với giải thưởng Thành tựu về thơ cho tác phẩm Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi.

Nhà thơ Lưu Quang Vũ (1948 – 1988) có những thành tựu đáng kể trong nhiều lĩnh vực, nhưng có thể nói thơ là nơi ông ký thác đời sống tinh thần của mình, nơi bộc lộ rõ nhất lý tưởng, lẽ sống và tình yêu của nhà thơ. Cũng chỉ với thơ, Lưu Quang Vũ thể hiện được nhiều hơn sự tài hoa và lịch lãm của nghệ sĩ gắn bó với Hà Nội.

Lần đầu tiên một tuyển tập khá đầy đủ thơ của Lưu Quang Vũ được xuất bản và Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi cho người đọc một cái nhìn bao quát về sự nghiệp thơ của một con người đa tài.
Tình yêu với thành phố nơi mình sinh ra và lớn lên, tình yêu đôi lứa, tình yêu với đất nước vừa đem đến niềm tự hào vừa xót thương vô hạn... thực sự lay động được cảm xúc của người đọc. Sự hồn nhiên và nồng nhiệt của cảm xúc đã nhiều lúc biện hộ cho một giọng thơ miên man như không có điểm dừng, cho một câu thơ hay như bị phân vân giữa ngồn ngộn chữ nghĩa, cho cấu tứ dường như buông lỏng của những bài thơ dài hơi.

Hội Nhà văn Hà Nội trao giải cho tuyển tập được biên soạn khá công phu này để khẳng định thành tựu của Lưu Quang Vũ riêng trong lĩnh vực thơ, cũng như tính cập thời còn nóng hổi trong thơ ông.

Ngày 10.9.2010 Hội đồng chung khảo giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội đã họp phiên cuối và quyết định trao giải thưởng năm 2010 cho những tác phẩm sau:


- Cởi gió, tập thơ của Nguyễn Phan Quế Mai, NXB Hội Nhà văn, 2010. Tác phẩm nhận được 11/12 phiếu.
- Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi, tuyển tập thơ của Lưu Quang Vũ, NXB Hội Nhà văn và Nhã Nam, 2010 (giải Thành tựu về thơ). Tác phẩm được 9/12 phiếu.
- Nhân gian, tiểu thuyết của Thùy Dương, NXB Hội Nhà văn và công ty Hà Thế, 2010. Tác phẩm được 8/12 phiếu.


Tập thơ Cởi gió của Nguyễn Phan Quế Mai được chú ý giữa những giọng thơ trẻ. Một giọng thơ biết tiết chế để khi chạm đến cái riêng tư vẫn không sa vào bé nhỏ, vụn vặt. Tình cảm với đất nước quê hương của người xa xứ, hoặc đang sống ngay giữa lòng đất nước, thật tha thiết mà không lạm dụng cảm xúc.

Tác giả cũng chứng tỏ một bản lĩnh thơ trẻ, không chấp nhận cách cấu tứ quen tay, không sa vào ngôn từ dễ dãi, cũng không gây choáng bằng hình thức cầu kỳ, phù phiếm. Những bài thơ về Hà Nội dễ nhận được sự chia sẻ nhờ một cách nhìn hiện đại, một cách nghĩ, cách cảm trẻ trung và khá mới lạ.


Trao giải cho tập thơ của Nguyễn Phan Quế Mai, Hội Nhà văn Hà Nội khẳng định sự thành công bước đầu của một giọng thơ trẻ, đồng thời cũng mong chờ sự bứt phá của tác giả trong thời gian tới, trên cơ sở gia tăng độ mỹ cảm cho ngôn ngữ, nghiêm khắc hơn trong kỹ thuật và nghệ thuật thơ.



Về văn xuôi, tiểu thuyết Nhân gian của Thùy Dương là đóng góp của một nhà văn nữ trong việc khám phá và tái hiện đời sống theo một cách nhìn khác. Cõi nhân gian trong tác phẩm không chỉ là cõi người, mà người đọc còn được dẫn dắt vào cõi của người đã khuất. Thêm một cõi nữa mang tính nửa âm nửa dương: chuyện về những người đi tìm hài cốt liệt sĩ, những con người luôn bị ám ảnh và đời sống luôn trăn trở về những kiếp người đã chuyển sang cõi âm.

Góc nhìn hiện thực trong tác phẩm được thay đổi xoay quanh ba cõi này và tay nghề của tác giả cũng được thử thách trong quá trình dẫn dắt câu chuyện theo một cấu trúc phân mảng. Thách thức thì lớn và không phải lúc nào tác giả cũng vượt qua một cách ngoạn mục: có lúc chị đã sa vào những chuyện kể chi li làm giảm tính biểu tượng và khái quát của tác phẩm.

Ngôn ngữ thuần thông tin trong tác phẩm tiểu thuyết cũng là một sự lựa chọn không hẳn đắc địa, ảnh hưởng đến sức nặng lẽ ra có thể hàm chứa nhiều hơn trong tác phẩm. Giải thưởng này cũng là một ghi nhận đối với lao động nghề nghiệp nghiêm túc của nhà văn Thùy Dương trong thời gian qua.


Mùa giải thưởng năm 2010 của Hội Nhà văn Hà Nội đã khép lại với phần nào hẫng hụt khi vẫn có rất nhiều sách dịch được xuất bản, nhiều cuốn cũng gây được sự chú ý của dư luận, nhưng Hội Nhà văn Hà Nội quyết định không trao giải thưởng cho một bản dịch cụ thể của năm nay. Những bản dịch đáng chú ý được đề cử, bên cạnh ưu điểm thường đi kèm với những điều gây băn khoăn nên không thuyết phục được đa số hội đồng chung khảo.


Cũng như vậy, phần giải thưởng dành cho sách phê bình tiểu luận đã phải để trống bởi vì hội đồng không chọn được tác phẩm thực sự nổi trội. Và như vậy, người đọc lại có lý do để mong chờ và hy vọng vào một mùa giải sắp đến.

Nguồn: Hội Nhà văn Hà Nội

Entries liên quan:
CÁC LÃO LÀNG ĐOẠT GIẢI HỘI NHÀ VĂN HÀ NỘI
NGƯỜI ĐÀN BÀ NGẮM VỆT TRĂNG QUA CÁNH CỬA
"CON CHÓ NHỎ CỦA ANH"


4/7/10

20 TRIỆU CHỨNG CỦA NGƯỜI THỦ ĐÔ



Một người bạn của tôi có thời gian quan sát lâu người Hà Nội vừa gửi cho tôi những nhận xét khá thú vị của anh về người thủ đô. Các bạn tham khảo, nhưng đừng ai chạm nọc nhé. Đọc cho vui.

Bạn là người ngoại tỉnh, ở lại Hà Nội sau khi học xong đại học, hoặc chuyển về thủ đô ở sau khi kết hôn, hoặc đơn giản là thích sống ở đất kinh kỳ. Sau một thời gian, bạn sẽ trở thành người thủ đô chính cống khi có những triệu chứng sau đây:

1 … gọi bạn bè đến những quán cà phê Highlands và Trung Nguyên mới để xem chúng có gì hay, ngồi ở quán nọ chê bai quán kia.

2 … ít nhất một lần bị kẹt xe 3 giờ đồng hồ dưới cái nắng chang chang hoặc cái rét cắt da cắt thịt, lẩm bẩm chửi hệ thống giao thông quá tải và tồi tệ.

3 … tham gia vô điều kiện vào các cuộc chạy trường cho con cái, o bế thầy cô giáo của con cứ như là nếu không có họ thì gia đình bạn sẽ lâm vào cuộc khủng hoảng toàn diện.

4 … khó chịu với mùi than tổ ong, mặc dù bố mẹ bạn rất thích sử dụng loại nhiên liệu ấy cho tiết kiệm.

5 … chưa bao giờ đến Bảo tàng Dân tộc học và Bảo tàng Mỹ thuật, chưa bao giờ dám ngồi lên xe xích lô.

6 … nhìn những người mới chuyển về Hà Nội bằng nửa con mắt.

7 … có ai phê phán “cơm chửi, cháo quát” thì bực tức và ra sức biện minh rằng đó chỉ là thói quen, chứ người Hà Nội ai cũng thanh lịch.

8 … luôn luôn vứt rác ra đường, nhưng đi đến đâu cũng than phiền sao phố sá bẩn thế, sao ý thức người dân kém thế.

9 … vẫn có thể ngủ say sưa khi loa phường phát oang oang.

10 … thích dùng ví nhiều ngăn vì có quá nhiều thẻ, phiếu giảm giá, phiếu ưu đãi.

11 … hiểu hết các giọng địa phương của con vì thay oshin liên tục.

12 … lên kế hoạch tìm kiếm đất ở ngoại thành hoặc tỉnh lân cận để làm nhà cuối tuần, trang trại... nhưng nhất định không phải ở quê mình.

13 … rên rẩm không biết đi nghỉ ở đâu vào dịp 30-4 và ngày Quốc khánh 2-9.

14 … thích thực phẩm sạch nhưng không biết chúng có thực sự sạch hay không.

15 … không còn cảm giác gì khi tình cờ nhìn thấy một người nổi tiếng, họ đầy ngoài đường, gặp suốt ấy mà.

16 … thích gọi taxi khi trời mưa. Ít nhất một lần phải thuê dịch vụ lau bugi vì xe máy bị chết giữa đường ngập nước.

17 … buổi tối đến tiệm cắt tóc, nhổ răng, gội đầu.

18 … dùng túi nilon vô tội vạ, dùng hộp xốp đựng thức ăn mặc dù biết rõ qua báo chí rằng hộp xốp có thể chứa độc tố.

19 … đọc báo mạng, không đọc báo in, lập account FB (hoặc một mạng xã hội nào đó) mặc dù ít khi vào, thích chém gió trên diễn đàn xa mẹ và webtretho.

20 … đi nghỉ ở Đà Nẵng, Nha Trang có ý định bỏ thủ đô đến đó sinh sống vì đã quá ngán sự chật chội, ô nhiễm.

Bạn còn biết thêm triệu chứng nào thì bổ sung trong comment.


8/4/10

AI CẦN DỰ ÁN QUY HOẠCH?



KTS NGUYỄN THANH CHƯƠNG

Mấy hôm trước tôi đọc trên trang nhất của VNexpress một tin khá nóng, đó là video clip ý tưởng quy hoạch Hà Nội năm 2030 với một cái tên thật hay: “Great Hà Nội”. Người Việt Nam, dù có sống hay không sống ở Hà Nội, dù có biết hay không biết tiếng Anh, nhưng nhác thấy chữ “Hà Nội vĩ đại” thì trong lòng cũng đã vui mừng lắm rồi. Là một người con của Hà Nội đang xa quê hương, tôi cũng không phải là ngoại lệ.

Ngồi xem đi xem lại đoạn video clip với những hình ảnh tuyệt vời về quy hoạch Hà Nội trong 20 năm nữa , lòng tôi lại ngập tràn niềm vui khôn tả. Không vui sao được khi chỉ 20 năm nữa thôi, lúc mà con cháu của tôi vừa mới trưởng thành, chúng đã được sống trong những căn nhà cao trọc trời tuyệt đẹp, được đi trên những tuyến phố rộng thênh thang, được dạo chơi trong những công viên rộng lớn rợp bóng cây, nhìn những đàn chim bay lượn trong yên bình. Cuộc sống đó, chẳng phải là thiên đường mà chúng ta bấy lâu nay vẫn đang mơ ước?

Ngồi tủm tỉm cười một mình, tôi chợt nhớ đến một câu chuyện liên quan đến quy hoạch Hà Nội từ mấy năm trước, khi tôi vừa mới tốt nghiệp ngành Kiến trúc. Một giảng viên dạy khoa Quy hoạch, tôi vẫn thường xưng hô anh em vì anh ấy chỉ cũng là đồng nghiệp vả lại hơn tôi có vài tuổi, có mời tôi tham gia vào một dự án quy hoạch một xã, vị trí quy hoạch cũng ngay gần trung tâm Hà Nội. Hôm ấy là buổi thuyết trình dự án, chúng tôi là bên tư vấn sẽ có nhiệm vụ trình bày về dự án trước chủ đầu tư, bao gồm ủy ban xã, đại diện thành phố và các ban ngành liên quan.

Trước khi buổi thuyết trình dự án diễn ra, anh giảng viên có đưa tôi khoảng hơn chục cái phong bì, mỗi phong bì đã để sẵn 20 ngàn đồng (xin lưu ý là 20 ngàn hồi ấy chưa mất giá, nên cũng tương đương khoảng 50 ngàn bây giờ); ngoài ra còn thêm vài cái phong bì 50 ngàn nữa. “Mấy cái dày này, em nhớ là để dành cho ông chủ tịch xã, ông bí thư, và cậu đại diện cho phòng quy hoạch của thành phố. Cậu ấy đại diện cho cấp thành phố, nên quan trọng lắm đấy! Em nhớ đánh dấu phong bì, kẻo lại nhầm!” – anh giảng viên dặn đi dặn lại tôi mấy lần.

Buổi thuyết trình diễn ra cũng khá suôn sẻ. Bản quy hoạch vùng cũng được thiết kế khá tốt, với những con đường mới, những tòa nhà chọc trời, những tiểu khu, những trường học, nhà trẻ, bể bơi, khu điều dưỡng, khu bảo tồn …, nói chung là rực rỡ và lung linh như bao thiết kế quy hoạch khác. Các đại diện cho xã, huyện, thành phố và các thôn ai cũng lộ vẻ hài long. Chẳng gì thì những cái nhà to đùng kia chẳng ở ngay cạnh nhà họ bây giờ sao? Những công trình tuyệt vời kia chẳng phục vụ cho con cái họ sao?

Phần phản biện và góp ý mới là phần căng thẳng nhất. Một bác trai đã về hưu, nhưng còn khá phong độ đứng lên phát biểu trước: “Tôi nghĩ con đường thôn mới mở kia nên chệch về phía phải khoảng 20 mét!”. Trong khi đại diện cho bên tư vấn là tôi còn đang thộn mặt chưa hiểu vì sao thì ở dưới đã có tiếng xì xào: “Vì cái đường trên bản đồ ấy nó hơi xa nhà bác ấy, nên cái miếng đất rộng bao la của bác ấy sẽ bị mất giá”.

Anh giảng viên dường như cũng nhận ra cái vẻ ngơ ngác của tôi, quay sang nói nhỏ: “Em đừng có thắc mắc làm gì, cứ ghi tất cả các ý kiến vào!”. Một bác gái khác lại đứng lên: “Tôi nghĩ rằng xã chỉ có một cái bể bơi lại đặt ở xóm X. thế kia là không công bằng. Tôi đề nghị xóm Y. chúng tôi cũng phải có một cái bể bơi to như thế, đặt ở chỗ này này…”. Nói rồi bác gái bước lên hẳn bục thuyết trình, trỏ vào tận nơi chỗ bác ấy đề nghị quy hoạch cái bể bơi.

Lập tức đại diện các xóm khác cũng không kém cạnh, chạy lên chỉ trỏ vào cái bàn đồ, đề nghị xây dựng công trình này, nắn lại con đường kia, tất cả đều gần nhà họ, hoặc ít ra thì gần nhà con cháu họ, hoặc họ hàng nội ngoại gần xa…; nói chung là làm sao cho chúng được “đặt đúng vị trí”. Tất cả tạo ra không khí cho một buổi đóng góp ý kiến phản biện rất ồn ào và căng thẳng, không thể chê vào đâu được!


Sau khi tất cả các ý kiến đóng góp đã được ghi lại cẩn thận, thì các vị đại biểu lục tục ra về. Tôi không quên nhiệm vụ cần từng phong bì, kính cẩn đưa từng vị đại biểu. Trái với cái vẻ lóng ngóng vì lần đầu đưa phong bì của tôi, các vị đại biểu cầm phong bì rất tự nhiên. Thậm chí có vị còn bóc phong bì ngay tại đó, móc tiền ra và thản nhiên cho vào túi. Tôi mãi ghi nhớ những hình ảnh đó, vì nó đã dạy cho tôi biết những kinh nghiệm đầu tiên của “văn hóa đưa và nhận phong bì”.

Tôi đang lục tục dọn dẹp đồ đạc, cuộn lại các bản vẽ để chuẩn bị ra về thì chợt nhận ra ông bí thư xã vẫn còn đang nán lại nói chuyện với anh đồng nghiệp của tôi. Ông bí thư xã người gầy nhỏ, tuổi chắc cũng sắp đến lúc về hưu nhưng còn nhanh nhẹn lắm. Tôi mới nhớ ra rằng lúc nãy cũng ngồi ở dưới bàn đại biểu, nhưng ông chỉ cười chứ không đưa ra phát biểu hay góp ý gì.

Dường như đọc được câu hỏi trong mắt tôi, ông bí thư cười to: “Cháu không biết chứ trong kho của xã đang còn bốn, năm cái bản quy hoạch xã từ mấy chục năm trước; mỗi cái một khác và chẳng cái nào giống với hiện trạng bây giờ cả! Bác có đưa ra góp ý thì cũng chẳng có để làm gì, rốt cuộc cái bản quy hoạch này lại nằm ở trong kho của xã thôi! Mấy năm nữa sẽ lại có một bản quy hoạch mới toanh mà!”.

Tôi ra về với bao câu hỏi quay cuồng trong đầu. Anh đồng nghiệp đèo tôi quay lại bảo: “Đúng là chú mới ra trường có khác! Đây là một dự án quy hoạch mà ai cũng có lợi: chúng ta là bên tư vấn, tất nhiên có tiền! Bên thành phố và huyện, xã thì có cái để mà giải ngân và chia chác. Các vị lãnh đạo thì có thành tích và để lại dấu ấn trong nhiệm kì của mình; còn người dân thì được hả hê và no mắt!”.

Đó là câu chuyện của những ngày tôi chập chững vào nghề kiến trúc sư. Trở lại clip về “Hà Nội vĩ đại”, tôi vẫn đang ngồi và hả hê với đoạn video về thành phố thân yêu của mình 20 năm nữa. Lần trước tôi là bên tư vấn, lần này tôi lại là người dân; biết đâu 20 năm nữa tôi lại là lãnh đạo thành phố, tôi hứa sẽ làm một video thật đẹp về thành phố thân yêu của chúng ta.

Và con cháu chúng ta cũng sẽ hả hê và no mắt về nó! Tôi hứa như vậy!

(Tác giả của bài viết này là KTS Nguyễn Thanh Chương)

Ảnh: Phối cảnh thành phố sông Hồng - một dự án quy hoạch do Hàn Quốc tài trợ.


7/4/10

CẢNH SÁT ĐỘI MŨ CỐI



Mấy hôm nay ra đường thấy cảnh sát giao thông đội mũ cối. Trông cũng vui mắt. Nhưng cứ thấy chú công an thế nào ấy. Cái mũ kêpi bị bà con một số tỉnh gọi vui là "khuôn tráng bánh cuốn" khiến cho gương mặt của người đội trông nam tính hơn, nói theo kiểu Việt Nam là "oai hơn".

Tìm hiểu thông tin thì được biết là Công an Hà Nội thử đội mũ cối, nếu thấy tốt, thì sẽ triển khai ra cả nước.

Lý do thay mũ kêpi bằng mũ cối là do thời tiết mùa hè Hà Nội mấy năm gần đây nóng bức. Cảnh sát giao thông không chịu được cái nóng này nếu chỉ đội cái mũ kêpi ngăn đầu với trời chỉ bằng một lớp vải. Đội mũ cối là giải pháp bảo vệ an toàn cho công an (đặc biệt là cảnh sát giao thông) suốt ngày phải làm việc ngoài trời, khỏi cái nắng như thiêu như đốt cũng như những cơn mưa dông quái ác.

Tôi không thích hình ảnh công an đội mũ cối lắm, nhưng khi biết rõ nguyên nhân thay mũ, thì thấy lý do nêu ra chấp nhận được. Miễn là các chú công an (dân gian hay nói: anh bộ đội, chú công an) làm việc tốt, đừng để tắc nghẽn giao thông và tội phạm hoành hành là được.

Nhưng mà nhìn sang mấy nước láng giềng thì vẫn hơi chạnh lòng, vì cảnh sát của họ mặc đẹp quá. Trông rất oai!

Trung Quốc




Thái Lan

Singapore

Malaysia

Indonesia


Ảnh: Báo Dân trí và Internet


28/3/10

MỘT CHỖ NGỒI ĂN RẤT ĐẸP



Trưa nay, dẫn các bạn đến một chỗ ăn, ai cũng suýt xoa khen, sao lại có chỗ ngồi ăn đẹp thế, không xa thành phố lắm, không xô bồ và thơ mộng.

Sông Hồng thao thiết chảy.


Những dãy bàn ăn kê dọc theo mái hiên của căn nhà gỗ,
trên đầu có tán hoa màu xanh tím.


Xích đu trắng quay mặt ra sông bên rặng tre xanh ngắt.

Đoạn đường đi dạo ven sông,
nơi lắng nghe "sông Hồng thở than""

Từ chiếc ghế này có thể ngắm mặt trời lặn và hoàng hôn buông trên sông


Hoa cỏ mùa xuân

Xem đến đây, thì chắc mọi người đoán ra chỗ này ở khu vực nào rồi.
Nếu ai có nhu cầu đến đây thì cứ mạnh dạn hỏi nhé.
Tình nguyện dẫn đường đến tận nơi.


 

VMC Copyright © 2009 | Power by Blogger | Template redesigned by Lý Minh Triết