Hiển thị các bài đăng có nhãn kinh tế. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn kinh tế. Hiển thị tất cả bài đăng

7/7/11

BẤT NGỜ TỪ VIỆC TRUNG QUỐC SĂN LÙNG NÔNG SẢN VIỆT NAM



Việc thương nhân Trung Quốc ráo riết săn lùng, thu mua nông sản, thực phẩm tại Việt Nam đang tạo ra rất nhiều bất ngờ. Có lẽ bất ngờ không chỉ đến với những người nông dân vốn thiếu thông tin mà còn khá bất ngờ đối với những nhà quản lý và các cơ quan chức năng của Việt Nam.

Nông dân vui

Hiện tượng thương nhân Trung Quốc đến tận ao, vườn của những người nông dân đặt hàng, thu mua sản phẩm với số lượng lớn, giá cao hơn giá thị trường đang khiến không ít người dân Việt Nam cảm thấy rất vui mừng. Cũng nhờ hiện tượng này mà thực trạng “được mùa, mất giá” vốn là nỗi ám ảnh của những người nông dân chân lấm tay bùn tạm thời được xua tan.

Liên tiếp trong thời gian gần đây, rất nhiều loại nông sản của nông dân từ Bắc chí Nam được các thương nhân Trung Quốc tìm mua. Từ các loại nông sản truyền thống như tiêu, sắn lát, cao su, thịt, thủy hải sản, … đến các sản phẩm ít phổ biến hơn hay được thu hoạch theo mùa vụ như dừa, trứng vịt, vải thiều, khoai lang…

Rủi ro cao

Đứng trước hiện tượng này, ngoài niềm vui của người nông dân thì không ít ý kiến của các chuyên gia lại tỏ ra lo ngại. Trong đó, đa số đều cho rằng sự quá phụ thuộc vào một thị trường, nhất là thị trường Trung Quốc, lại còn chủ yếu là xuất khẩu theo dạng tiểu ngạch đang chứa đựng nhiều rủi ro tìm ẩn. Ngoài ra, việc chạy theo nhu cầu bất thường của các thương nhân Trung Quốc sẽ dễ dẫn đến việc phá vỡ quy hoạch sản xuất của chúng ta. Và, việc thu gom ồ ạt của thương nhân Trung Quốc sẽ gây ra sự mất cân đối cung cầu cục bộ đối một số sản phẩm trong nước.

Những lo ngại này rất đáng quan tâm bởi trong quá khứ đã không ít lần nông dân Việt Nam đã phải ngậm “trái đắng”. Còn nhớ, những năm 2001 – 2002 nông dân và thương lái ở các tỉnh phía Bắc đã phải ngậm ngùi nhìn giá long nhãn rớt giá thê thảm từ 140.000 – 180.000 đồng/kg xuống còn 40.000 – 60.000 đồng/kg, thậm chí năm 2004, giá chỉ còn 10.000 – 20.000 đồng/kg. Cũng trong những năm 2004 – 2005, đứng trước việc thương lái Trung Quốc thu mua dưa hấu với giá khoảng 10.000 đồng/kg nên nông dân miền Trung đã ồ ạt trồng dưa hấu nhưng “kết quả” của niềm vui ấy là hàng trăm xe chở dưa hấu phải nằm lại và đổ bỏ ở cửa khẩu Lạng Sơn do không xuất được sang Trung Quốc.

Và rất nhiều ví dụ khác tương tự đều có nguyên nhân từ việc thu gom của thương nhân Trung Quốc như quả cau vào những năm 2007 – 2008, rau bắp non, tắc kè hay đỉa trong thời gian gần đây, …

Vì sao Trung Quốc mua nhiều ?

Như vậy thử lý giả việc tại sao thương nhân Trung Quốc lại bất ngờ quá “mặn mà” đối với các loại nông sản của Việt Nam trong thời gian này?

Khác với những lần trước, lần này thương nhân Trung Quốc thu gom rất nhiều loại nông sản cùng lúc chứ không phải “sốt” một loại duy nhất. Ngoài ra, thương nhân Trung Quốc đang thu mua có chọn lọc các sản phẩm có chất lượng cao. Điều này có thể thấy ngay rằng các sản phẩm nông sản của Việt Nam có chất lượng tốt hơn đồng thời có giá rẻ hơn tại Trung Quốc.

Ngoài ra, nhu cầu tiêu thụ tăng cao và hàng loạt vụ bê bối về vệ sinh an toàn thực phẩm có nguồn gốc xuất xứ từ trong nước cũng là nguyên nhân chính để các thương nhân đến từ Trung Quốc phải lùng sục các nguồn thực phẩm dồi dào và chất lượng hơn từ các nước khác, và Việt Nam là lựa chọn tốt nhất do chi phí vận chuyển thấp.


Sản phẩm Việt Nam phải “núp bóng”

Một đặc điểm đáng lưu ý trong đợt thu gom hàng hóa từ Việt Nam gần đây của các thương nhân Trung Quốc là họ yêu cầu phía Việt Nam đóng gói và dán nhãn mác Trung Quốc, điển hình là sản phẩm trứng vịt muối của bà Năm ở TP Long Xuyên, An Giang.

Từ sự việc này có thể thấy rằng rất nhiều khả năng các sản phẩm khác cũng có số phận tương tự, tức là thương nhân Trung Quốc thu gom nông sản thực phẩm có nguồn gốc xuất xứ tại Việt Nam về đóng nhãn mác của Trung Quốc để bán trong nước hay xuất khẩu sang một nước thứ ba với giá cao hơn.

Như vậy, những sản phẩm do chính tay nông dân Việt Nam làm ra nhưng vẫn mang thương hiệu khác, điều này cho thấy các sản phẩm nông sản này cũng chẳng khác gì so với những mặc hàng gia công khác như may mặc, điện tử, phầm mềm, … Và khi đó, các sản phẩm chất lượng cao từ Việt Nam lại đang phải đành “núp bóng” dưới các thương hiệu Trung Quốc.

Nhưng trớ trêu thay khi các sản phẩm kém chất lượng có xuất xứ từ Trung Quốc như quả dâu tây và rất nhiều sản phẩm khác thì lại đang xuất hiện với các thương hiệu Việt Nam và được bày bán công khai tại thị trường Việt Nam!

Tất cả những điều này cho thấy rằng, nông dân và các doanh nghiệp Việt Nam chưa nhận thức hết được chất lượng và giá trị của các loại nông sản do chính bà con nông dân Việt Nam làm ra. Đây là một lãng phí vô cùng lớn đối với các sản phẩm đang được xem là thế mạnh quốc gia.

Không riêng gì các mặt hàng nông sản thực phẩm mà rất nhiều sản phẩm khác như may mặc, điện tử, … do chính người Việt Nam làm ra để xuất khẩu và lại được nhập khẩu về lại dưới các thương hiệu nổi tiếng để tiêu thụ trong nước và tất nhiên giá cả đã được đẩy lên cao hơn rất nhiều lần. Điều này cho thấy một phần là do tâm lý sính ngoại và phần khác là do các doanh nghiệp, các nhà sản xuất trong nước vẫn chưa thoát khỏi tâm lý tự ti, chưa đủ tự tin khi không dám tự làm nên những thương hiệu có thể cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại khác.

Nếu các sản phẩm có xuất xứ từ Việt Nam nhưng phải “núp bóng” dưới các thương hiệu khác thì đến bao giờ nông dân Việt Nam nói riêng và những nhà sản xuất khác nói chung mới được thụ hưởng xứng đáng giá trị của các sản phẩm do mình làm ra? Và, với cái đà này thì đến bao giờ Việt Nam mới có những thương hiệu nổi tiếng thế giới?

TRẦN MINH QUÂN

Nguồn:
Bất ngờ từ việc Trung Quốc săn lùng nông sản Việt Nam



25/6/11

RỦI RO ĐẠO ĐỨC TỪ HỆ THỐNG NGÂN HÀNG



Các cuộc chạy đua lãi suất của các ngân hàng khiến cho doanh nghiệp phải gồng mình chịu đựng chi phi vốn cao chỉ là một mặt của bức tranh của thị trường tiền tệ hiện nay. Một vấn đề nhức nhối khác là những rủi ro đạo đức đang ngày một tăng trong một môi trường chính sách thiếu kiên quyết và nhất quán.

Sự thật mà ai cũng biết, báo chí cũng đề cập nhiều trong thời gian vừa qua, là việc các ngân hàng thương mại lách quy định trần lãi suất huy động của ngân hàng Nhà nước (NHNN), tham gia vào cuộc chạy đua huy động có lúc đưa lãi suất tiền gửi lên tới 20 – 21%/năm đối với các khoản gửi ngắn hạn.

Khi phóng viên đặt câu hỏi này với NHNN, thường nhận được trả lời bằng một câu hỏi từ các cán bộ ngân hàng: “bằng chứng đâu?” Các ngân hàng dễ dàng lách quy định này bằng những hợp đồng tín dụng mà trên danh nghĩa là khoản gửi ở mức lãi suất 14%, nhưng cộng thêm những điều khoản khác bên ngoài khiến cho lãi suất thực nhận là trên mức trần rất nhiều.

Trên thực tế, trong vòng vài năm qua, hàng loạt quy định hành chính mà ngân hàng sử dụng làm công cụ điều tiết thị trường tiền tệ và hệ thống ngân hàng đã không phát huy được tác dụng mong muốn, không được các ngân hàng áp dụng nghiêm minh, tạo ra tình trạng méo mó trong hoạt động của hệ thống. Quy định về trần lãi suất chỉ là một ví dụ trong hàng loạt quy định hành chính khác không phát huy được hiệu quả.

Năm ngoái, NHNN đưa ra thông tư quy định về việc tăng vốn tối thiểu của các ngân hàng lên trên 3.000 tỉ vào cuối năm 2010, một quy định được cho là hết sức cần thiết để củng cố, làm mạnh hệ thống ngân hàng, tạo sức ép để các ngân hàng nhỏ, yếu kém sáp nhập với nhau. Nhưng ba tuần trước thời hạn thực hiện, NHNN đổi ý, giãn thời hạn thực hiện tới một năm sau. Các chuyên gia về ngân hàng cho rằng NHNN đã bỏ lỡ một cơ hội để củng cố hệ thống ngân hàng, tạo một tiền lệ không tốt cho thị trường.

Câu chuyện nóng trên thị trường trong thời gian hiện nay là tỷ lệ nợ xấu trong ngân hàng – liệu xấu đến mức nào? Điều có thể thấy trong hành xử của các ngân hàng hiện nay là sự chênh lệch giữa các ngân hàng: trong khi có những ngân hàng có dư thanh khoản và phải mua trái phiếu chính phủ với lãi suất thấp, thì lại vẫn có những ngân hàng bị thiếu thanh khoản cục bộ, mất thanh khoản tạm thời… và có giai đoạn phải chấp nhận vay nóng trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất cao, có nhiều trường hợp phải chấp nhận lãi suất phạt (gấp rưỡi mức lãi suất đáng ra chỉ trả, tới mức 30%/ năm thay vì 20%/năm).

Một số ngân hàng thời gian qua huy động với lãi suất cao cũng chính là những ngân hàng đang phải đi vay nóng trên thị trường liên ngân hàng. Tại sao người gửi tiền vẫn bỏ tiền vào những ngân hàng này mà không e ngại rủi ro? Quy định về bảo hiểm tiền gửi chỉ bảo đảm cho khoản tiền gửi tối đa 50 triệu đồng. Theo các chuyên gia, có một lý do mọi người đều ngầm hiểu là NHNN sẽ không để cho ngân hàng thương mại nào sụp đổ.

Nếu xảy ra tình trạng thiếu thanh khoản, thì NHNN sẽ bơm tiền vào cứu. Đây là một vấn đề nhạy cảm đối với các hệ thống ngân hàng trên toàn thế giới, không chỉ ở Việt Nam. Nhưng việc thiếu những quy định rõ ràng, các chuyên gia cho rằng đang tạo ra “rủi ro đạo đức” trên thị trường: mọi người đều biết là rủi ro nhưng vẫn tham gia vào cuộc chạy đua lãi suất.

Tổng giám đốc một ngân hàng thương mại nước ngoài lớn, đề nghị không nêu tên, còn bày tỏ lo ngại về những “rủi ro đạo đức” trong các cán bộ ngân hàng khi giao dịch với khách hàng. Vị giám đốc này cho biết, trong vòng hai năm qua chuẩn mực đạo đức của nhân viên trong các ngân hàng xuống rất thấp. Khi lãi suất cao, các khoản vay đến thời hạn đáo hạn, doanh nghiệp phải đáo nợ, phải tìm cách vay trong khi khả năng chi trả kém… những tình huống này đang tạo ra một làn nước đục cho các thoả thuận ăn chia, tỷ lệ lại quả… giữa doanh nghiệp đi vay và cán bộ tín dụng.

Vị giám đốc này nói: “Điều này đang tạo ra hệ luỵ lâu dài cho hệ thống ngân hàng”. Một trong những “làn nước đục” khác trong hệ thống ngân hàng là những khoản vay chính sách mà các ngân hàng lớn của Nhà nước áp dụng cho các doanh nghiệp nhà nước. Các khoản vay chính sách được cho là rất “tù mù” nhưng vẫn được duy trì.

Với chính sách ngân hàng quản lý ngân hàng như hiện nay, các chuyên gia cho rằng, khả năng sụp đổ của hệ thống ngân hàng là rất thấp hoặc không thể xảy ra, nhưng khả năng có một hệ thống ngân hàng mạnh khoẻ, giúp doanh nghiệp phát triển và có tính cạnh tranh là rất thấp. “Rủi ro đạo đức”, một thực trạng làm yếu kém hệ thống, dường như là điều ai cũng biết nhưng tránh đề cập đến.

LAN ANH

Nguồn:
Rủi ro đạo đức từ hệ thống ngân hàng



7/6/11

ĐAU ĐẦU CHUYỆN NHẬP SIÊU TỪ TRUNG QUỐC


Chợ VN tràn ngập hàng hóa TQ - những mặt hàng mà VN thừa sức sản xuất.

NGUYỄN QUANG A

Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê (TCTK), 5 tháng đầu năm 2011, tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam là 34 tỉ 746 triệu USD, trong khi kim ngạch nhập khẩu lên đến 41 tỉ 335 triệu USD, nhập siêu 6 tỉ 589 triệu USD.

Nhập siêu với Trung Quốc tăng rất nhanh từ mức 2,67 tỉ USD năm 2005 lên đến 12,7 tỉ USD năm 2010 (gấp 4,76 lần!)

Xuất nhập khẩu của Việt Nam 4 tháng 2011 (đơn vị: tỉ USD, nguồn: TCTK)

Thị trường

Hoa Kỳ

EU

ASEAN

Trung Quốc

Nhật Bản

Tổng

Xuất khẩu

4,8

4,8

4,1

3

2,8

27,246

Nhập khẩu

1,3

2,1

6,7

7,1

3,1

32,135

Cán cân thương mại

3,5

2,7

– 2,5

– 4,1

– 0,3

- 4,889

Nhập siêu của tháng 5.2011 ước tính 1,7 tỉ USD, nhưng rất tiếc TCTK không phân số liệu ra các thị trường chính như của 4 tháng đầu năm kể trên. Có thể thấy nhập siêu từ Trung Quốc là rất lớn và việc giảm nhập siêu từ Trung Quốc là vấn đề đau đầu.

Từ Thúy Anh và Nguyễn Bình Dương trong Báo cáo Kinh tế Việt Nam 2011 của trung tâm Nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR), trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, đã có một báo cáo tương đối chi tiết về “phân tích cấu trúc thâm hụt cán cân thương mại Việt Nam - Trung Quốc”.

Theo báo cáo của Từ Thúy Anh và Nguyễn Bình Dương, tỷ lệ thâm nhập của Trung Quốc năm 2008 trên thị trường Việt Nam trong lĩnh vực sản xuất như sau: sản xuất máy móc thiết bị (85,9%); sản xuất than cốc và dầu mỏ tinh chế (71,8%); radio, TV, thiết bị truyền thông (28,6%); thiết bị văn phòng, máy tính (27,7%); sản xuất sản phẩm dệt (20,3%); sản xuất thiết bị điện (10,7%); sản xuất sửa chữa xe có động cơ (10,4%).

Cũng theo báo cáo trên, cán cân thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc năm 2008, tính bằng tỉ USD (+ xuất siêu, – nhập siêu) phân theo các loại mặt hàng chính như sau: phương tiện vận tải phụ tùng (–5,37); hàng chế biến phân theo nguyên liệu (–5,08); hóa chất, sản phẩm liên quan (–1,82); nguyên liệu thô và nhiên liệu (+1,53); thực phẩm và động vật tươi sống (+0,19).

Có thể thấy chúng ta xuất siêu nguyên liệu thô, khoáng sản, nông lâm thủy sản, còn nhập siêu chủ yếu là phương tiện vận tải, máy móc thiết bị, hàng chế biến phân theo nguyên liệu (vải, chất dẻo)...

Theo TCTK, năm 2010 Việt Nam nhập từ Trung Quốc 20,02 tỉ USD hàng hóa, trong đó các mặt hàng chính gồm: máy móc thiết bị, phụ tùng (22,37%); bông, vải, sợi, nguyên phụ liệu dệt may, da giầy (15,64%); sắt thép, sản phẩm từ sắt thép, kim loại (11,39%); máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện (8,41%); xăng dầu, khí hóa lỏng, sản phẩm từ dầu mỏ (6,97%); hóa chất, sản phẩm hóa chất (4,56%); chất dẻo nguyên liệu và sản phẩm (2,9%); phân bón, thuốc trừ sâu (2,25%).

Nguyên nhân cơ bản của nhập siêu với Trung Quốc là các công ty của họ thắng phần lớn các hợp đồng EPC (Engineering, procurement and construction - Thiết kế, mua sắm và xây dựng) tại Việt Nam. Loại hợp đồng này thường được dùng trong xây dựng các nhà máy điện và các nhà máy cũng như công trình khác. Và trong lĩnh vực xây cất các nhà máy điện (của EVN và TKV), mỏ (như bauxit Tân Rai, Nhân Cơ, đồng của TKV), hóa chất (phân đạm Hà Bắc), giao thông (như xây, cải tạo đường sá ở TP. Hồ Chí Minh, đường sắt trên cao ở Hà Nội) các hợp đồng đều do các công ty Trung Quốc thắng. Thắng thầu, họ nhập máy móc, thiết bị, vật liệu, sắt thép…, thậm chí cả nhân công (các số liệu trên chỉ là về xuất nhập khẩu hàng hóa, chưa nói đến dịch vụ, nếu tính cả dịch vụ, nhập siêu của Việt Nam còn cao hơn). Và đấy là một nguyên nhân chính của nhập siêu. Và vai trò của các tập đoàn kinh tế nhà nước của Việt Nam trong thành tích xấu này là rất nổi bật.

Phần nhập khẩu nguyên liệu, bán thành phẩm để tiêu thụ hay sản xuất các mặt hàng tiêu thụ trong nước (thay thế hàng nhập khẩu) cũng chiếm tỷ lệ đáng kể (điện tử, máy tính, xăng, phân bón, thuốc trừ sâu). Và phần này cũng đóng góp vào thành tích xấu về nhập siêu với Trung Quốc.

Một nguyên nhân quan trọng nữa của tình hình nhập siêu với Trung Quốc là nhập các mặt hàng chế biến phân theo nguyên liệu (vải, sợi, nguyên liệu da giày) để chế biến hàng xuất khẩu và tiêu dùng trong nước. Các loại mặt hàng may mặc, da giày, thủy sản Việt Nam xuất nhiều hơn nhập, như vậy nhập siêu các nguyên liệu này từ Trung Quốc được bù lại với xuất siêu các thành phẩm sang các thị trường khác (như Mỹ, EU). Một phần của nhập khẩu điện tử, máy tính cũng có thể liệt kê vào đây. Tuy nhiên giá trị gia tăng do các doanh nghiệp Việt Nam tạo ra thấp, nên thực chất là “xuất khẩu hộ” các doanh nghiệp Trung Quốc (mà một phần là các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài tại Trung Quốc).

Có thể thấy nguyên nhân sâu xa của căn bệnh nhập siêu lớn với Trung Quốc là từ chính sách phát triển và cơ cấu nền kinh tế, do chưa sử dụng tốt các rào cản kỹ thuật. Và như thế việc giảm nhập siêu với Trung Quốc là vấn đề nan giải và chủ yếu vẫn là thay đổi cơ cấu nền kinh tế, cải tổ các doanh nghiệp nhà nước, nâng cao hiệu quả của các doanh nghiệp Việt Nam.

Nguồn:
Đau đầu chuyện nhập siêu từ Trung Quốc



13/9/10

KẺ KHỔNG LỒ BÊN CẠNH TA (3)



Bài 3: Chính sách đồng tiền yếu

Nguyễn Tiến Dũng (ĐH Toulouse – Pháp)

Trong ba thập kỷ qua, TQ đã giữ chính sách đồng tiền yếu, và chính sách này đã góp phần làm cho hàng hóa TQ tràn ngập thế giới, còn hàng nhập khẩu cho tiêu dùng ở TQ thì ít, và thặng dư thương mại (trade surplus) của TQ lên đến 200-300 tỷ USD/năm.

Thông thường, các nước giàu thì có đồng tiền mạnh, còn các nước nghèo hay đang phát triển thì có đồng tiền yếu. Từ mạnh ở đây có nhiều nghĩa:

1) Ổn định, không bị mất giá nhanh hay lạm phát cao, thuận lợi cho việc dùng làm công cụ tích trữ tài sản.

2) Được nhiều người nước ngoài chấp nhận, có thể dễ dàng thanh toán bằng tiền này khi ở nước khác hoặc trên các thị trường quốc tế.

3) Giá hối đoái cao so với các đồng tiền khác, tính theo chỉ giá sinh hoạt. Ví dụ như 100 EUR ở Việt Nam thì sẽ mua được nhiều dịch vụ và hàng hóa nhu yếu phẩm hơn là 100 EUR ở châu Âu, và có nghĩa là EUR mạnh hơn VND theo nghĩa thứ 3).

Nước nào nghèo thì đồng tiền của nước đó sẽ yếu theo nghĩa 1) vì kinh tế chưa ổn định, dễ bị lạm phát cao; theo nghĩa 2) vì niềm tin của mọi người vào đồng tiền của nước đó thấp và theo nghĩa 3) vì nghèo thường gắn liền với lạc hậu về công nghệ và chỉ có nhiều lao động thô, nên các loại hàng hóa dịch vụ chỉ cần lao động thô thì rẻ còn các đồ công nghệ cao phải nhập khẩu thì đắt.

Hơn nữa, đồng tiền phải yếu (theo nghĩa thứ 3), thì mới có thể cạnh tranh về giá và xuất khẩu được (thường là những đồ công nghệ thấp) ra thị trường thế giới. Ngoài ra, đồng tiền yếu làm hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng (vì đồ ngoại đắt khiến ít người mua), góp phần làm giảm thâm hụt hoặc tăng thặng dư cán cân thương mại.

Trong ba thập kỷ qua, TQ đã giữ chính sách đồng tiền yếu, và chính sách này đã góp phần làm cho hàng hóa TQ tràn ngập thế giới, còn hàng nhập khẩu cho tiêu dùng ở TQ thì ít, và thặng dư thương mại (trade surplus) của TQ lên đến 200-300 tỷ USD/năm.

Vào thời điểm tháng 8/2010, tỷ giá USD/RMB (đồng nhân dân tệ, phiên âm tiếng Anh là Renmimbi) là 1USD = 6,77RMB, nhưng theo các phân tích kinh tế, tỷ giá này phải xuống thành 1USD = 3RMB hoặc thấp hơn nữa (tức là đồng RMB phải lên giá hơn nữa so với USD) thì Mỹ và các nước khác mới có thể cân bằng lại cán cân thương mại với TQ.

Đồng RMB của TQ khi mới xuất hiện vào năm 1948 được cố định tỷ giá là 2,46RMB = 1USD (1), và tỷ giá đó được giữ trong nhiều năm. Trong những năm 1970, thậm chí RMB còn lên giá so với USD thành quãng 1,5 RMB = 1 USD vào năm 1980. Nhưng cùng với sự mở cửa kinh tế, TQ đã phá giá dần RMB so với USD trong suốt nhiều năm để tăng khả năng cạnh tranh, và đến 1994 thì tỷ giá USD/RMB là 1USD = 8,62RMB. Sau đó TQ cố định lại tỷ giá 1USD = 8,27RMB trong giai đoạn 1997-2005.

Từ 2005, sau khi bị Mỹ thúc ép liên tục, TQ mới thả lỏng bớt đồng RMB, để cho nó lên giá một chút so với USD. Vào tháng 6/2010 Ngân hàng Trung ương TQ tuyên bố sẽ thả lỏng hơn đồng RMB. Nước nào có cán cân thương mại bị thâm hụt nhiều, nợ nước ngoài cao, thì các lực kinh tế đẩy đồng tiền phải yếu đi (theo nghĩa thứ 3) cho cân bằng lại. Ví dụ, sau một thời gian dài thâm thụt cán cân thương mại nặng với Nhật Bản, Mỹ đã ép Nhật Bản phải nâng tỷ giả đồng Yên lên 100% so với USD trong giai đoạn 1985-1988 (từ quãng 250 Yên = 1 USD lên thành 125 Yên = 1 USD (2).

Tình hình của TQ hiện tại cũng tương tự như Nhật Bản năm 1985, bởi vậy nhiều khả năng TQ sẽ bị áp lực làm tăng giá đồng RMB, dù rằng chính phủ TQ không thích chuyện này và tìm mọi cớ để “kháng cự”. Triển vọng tỷ giá hối đoái 1USD = 3RMB chắc còn xa, nhưng nhiều khả năng là RMB sẽ lên giá so với USD trong những năm tới.

Về lý thuyết, RMB vẫn đang là đồng tiền yếu theo nghĩa thứ 2, vì nó chưa được dùng phổ biến làm tiền dự trữ của các nước khác (trừ một số nước lân cận như Mông Cổ, Bắc Triều Tiên). Thế nhưng, RMB hiện đã là đồng tiền mạnh theo nghĩa thứ nhất (có khi còn ổn định hơn USD), và theo dự đoán thì trong tương lai không xa cũng sẽ mạnh theo nghĩa thứ 2.

Bản thân TQ hiện cũng không hài lòng về việc đồng USD được sử dụng làm tiền dự trữ trên thế giới lấn át các đồng tiền khác, và muốn thay thế USD bằng một rổ các đồng tiền mạnh (trong đó ắt hẳn sẽ có phần của RMB) để làm thành một “đồng tiền quốc tế”. (Ý muốn này của TQ là hoàn toàn đúng đắn về lý thuyết kinh tế, vì nó làm tăng ổn định cho dự trữ ngoại tệ).

Nếu so sánh giữa RMB và VND, ta có thể thấy rằng VND yếu hơn RMB theo nghĩa thứ nhất và thứ hai, nhưng có khi lại mạnh hơn RMB theo nghĩa thứ 3?! Lạm phát của VN ở mức khá cao (10-20%) trong những năm vừa qua trong khi tỷ giá hối đoái USD/VND (hay giữa các đồng tiền mạnh khác và VND) có tăng nhưng chậm hơn nhiều. Điều đó có nghĩa là VND tăng giá so với các đồng tiền khác sau khi đã trừ đi lạm phát, hay nói cách khác, VND mạnh lên theo nghĩa thứ 3. Điều này không có vẻ có lợi cho cán cân thương mại của VN, và một phần giải thích vì sao VN cạnh tranh kém TQ?
------
(1) Xem: http://en.wikipedia.org/wiki/Renminbi
(2) Xem lịch sử tỷ giá Yên/USD tại: http://en.wikipedia.org/wiki/Japanese_yen


Nguồn:
KẺ KHỔNG LỒ BÊN CẠNH TA (3) - TẠP CHÍ TIA SÁNG

Entries liên quan:
KẺ KHỔNG LỒ BÊN CẠNH TA (1)
KẺ KHỔNG LỒ BÊN CẠNH TA (2)
GIAN LẬN HỌC THUẬT Ở TRUNG QUỐC
TRUNG QUỐC XÂY NHÀ MÁY ĐIỆN HẠT NHÂN SÁT BIÊN GIỚI VIỆT NAM
BẠC HY LAI - ÔNG LÀ AI?
TRUNG QUỐC BỊ CHIA NHỎ VÀO 2050?


2/9/10

KẺ KHỔNG LỒ BÊN CẠNH TA (1)



Nguyễn Tiến Dũng (ĐH Toulouse – Pháp)

Vào năm 2010, TQ (Trung Quốc) đã chính thức trở thành nền kinh tế lớn thứ 2 trên thế giới, vượt lên trên Nhật Bản, và đang trên đà trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới trong 1-2 thập kỷ tới.

Sự đi lên của TQ có rất nhiều hệ quả, cho thế giới. Ví dụ như, TQ sẽ thay thế Mỹ trở thành nước có ảnh hưởng lớn nhất trên thế giới. Đồng tiền Nhân dân tệ của TQ sẽ trở thành một trong các ngoại tệ mạnh được dùng làm ngoại tệ dự trữ trên thế giới, trong khi vai trò của USD thì giảm đi. Nhiều nước, trong đó có VN (Việt Nam), có nguy cơ trở thành rất phụ thuộc vào TQ về kinh tế. Nhưng đồng thời, sự đi lên của TQ cũng có thể kéo VN lên theo.
Bài viết này nhằm phân tích về sự đi lên của TQ trong hơn 3 thập kỷ qua, và những vấn đề của họ, đồng thời đưa ra một số so sánh với VN, và nhằm rút ra một số bài học cho VN.

Trong bài này, tôi sẽ đề cập đến những điểm sau, mỗi điểm được trình bày trong một mục: Triết lý "mèo trắng mèo đen"; Truyền thống tiết kiệm; Sức mạnh tỷ người; Quân bài nhân công rẻ mạt; Chính sách đồng tiền yếu; Chủ nợ của thế giới; Thực dân kinh tế thế kỷ 21; Làn sóng Hoa kiều mới; Mua chuộc Đài Loan; "Lục địa hóa" Hồng Kông; Hiện đại hóa quân sự; Phát triển công nghệ; Tự do mậu dịch; Sức mạnh mềm; Vấn nạn tham nhũng; Sự xụp đổ của xã hội tiêu thụ?; Những bài học cho VN?

Triết lý mèo trắng mèo đen

Mao Zedong (Mao Trạch Đông1) thành lập nước TQ mới (CHND Trung Hoa) vào năm 1949, và muốn đưa TQ đi theo CNCS để trở thành một cường quốc cộng sản trên thế giới, dựa trên học thuyết Marx-Lenin cộng với triết lý của Mao, lan tỏa ảnh hưởng đến toàn cầu. Thế nhưng, các chính sách «nặng mầu tư tưởng» của Mao đa làm cản trở sự phát triển của TQ. Có thể kể đến một số chiến dịch tai hại do Mao phát động như

- «Cải cách ruộng đất», 1953 (đấu tố «địa chủ», nhiều người làm ăn tử tế bị thiệt mạng)

- «Đại nhảy vọt», 1958-1961 (gây nên thảm họa kinh tế với 20 triệu người bị chết đói)

- «Cách mạng văn hóa», 1966-1971 (hủy hoại tầng lớp trí thức và nền khoa học TQ)

Một việc có lợi cho TQ mà Mao làm được là bình thường hóa quan hệ với đế quốc Mỹ, một «kẻ thù về hệ tư tưởng», vào năm 1972, với chuyến đi thăm TQ lịch sử của Tổng thống Nixon. Nhưng phải đợi đến sau năm 1976, khi Chu Ân Lai (Thủ tướng TQ) và Mao chết, và Deng Xiaoping (Đặng Tiểu Bình, sinh năm 1904)2 lên nắm quyền, TQ mới thực sự thay đổi quĩ đạo, bắt đầu giai đoạn phát triển nhanh, để từ một nước nghèo khó trở thành đại cường quốc tranh dành ngôi bá chủ thế giới với Mỹ vào năm 2010.

Đặng Tiểu Bình từng là tướng quân đội và từng làm Phó Thủ tướng dưới thời Mao, nhưng trong thời kỳ cách mạng văn hóa bị Mao buộc tội là «hữu khuynh» và bắt đi lao động cải tạo cho đến năm 1976, và con trai của Đặng Tiểu Bình thì bị thủ tiêu. Khi Mao chết, Hoa Quốc Phong lên thay đã khôi phục lại Đặng Tiểu Bình, và sau đó họ Đặng với uy tín cao đã trở thành nhà lãnh đạo cao nhất của TQ.

Trong các câu triết lý thâm thúy của Đặng Tiểu Bình, nổi tiếng nhất có lẽ là câu: Mèo trắng hay mèo đen không quan trọng, miễn là bắt được chuột. Từ lúc Đặng Tiểu Bình lên, TQ đã áp dụng triệt để triết lý «mèo trắng mèo đen», rũ bỏ các chính sách nặng màu «hệ tư tưởng» (ideology), và lập nên các chính sách «thực dụng» (pragmatic) nhằm giải quyết các vấn đề mà họ quan tâm, trong đó đặc biệt là phát triển kinh tế và ổn định xã hội TQ, khiến thế giới phải nể sợ.

Một số biểu hiện cụ thể của học thuyết «mèo trắng mèo đen» là:

- Từ năm 1978, TQ bắt đầu đợt cải cách triệt để về kinh tế3. Chủ nghĩa tư bản hay kinh tế thị trường không bị coi là xấu nữa, cho phép kinh tế tư nhân, miễn sao phát triển được kinh tế.

Các hợp tác xã nông nghiệp (mô hình nông nghiệp XHCN) được xóa đi, phân lại đất cho nông dân tư hữu nhằm tăng sản lượng nông nghiệp. Vào năm 2005, khu vực kinh tế tư nhân đã chiếm đến 70% nền kinh tế TQ (tuy nhiên, cần hiểu rằng, các hãng gọi là «tư nhân» ở TQ vẫn có Nhà nước chiếm cổ phần khá lớn, hoặc/và do con cháu các vị lãnh đạo ĐCS làm chủ).

- Về mặt đối ngoại, TQ chơi với bất cứ chế độ chính trị nào, bất cứ thế lực cầm quyền nào, miễn sao điều này có lợi về kinh tế cho họ. Không còn phân biệt «địch ta» về ý thức hệ nữa. Ví dụ, khi Taliban nắm chính quyền ở Afganistan thì TQ chơi với Taliban, nhưng khi Taliban bị lật đổ và Chính phủ mới lên thay, thì TQ lại chơi ngay với Chính phủ mới, nhằm chiếm giữ quyền khai thác khoáng sản ở đó.

---

Theo triết lý mèo trắng mèo đen, thì tên gọi tư bản hay cộng sản không quan trọng, miễn sao trở thành giàu có quyền lực. Trên thực tế, ở TQ ngày nay, phần lớn các nhà tư bản của TQ là «tư bản đỏ», tức là từ ĐCS mà ra. Theo một tin của Tân Hoa Xã TQ đưa ra vào tháng 10/2006, trong số 3220 tỷ phú (tiền nhân dân tệ) tại TQ, có đến 2932 «hoàng tử đỏ», tức là con cháu của các lãnh đạo cao cấp của ĐCS TQ, chiếm 91% ! Khoảng cách giữa người giàu và người nghèo ở TQ tăng lên trong mấy chục năm qua, nhưng ngày nay không còn ai nói đến chuyện «đấu tranh giai cấp» nữa.

Truyền thống tiết kiệm


Truyền thống tiết kiệm của dân TQ là một yếu tố vô cùng thuận lợi cho sự nghiệp tích lũy làm giàu của họ. TQ là nước có tỷ lệ tiết kiệm cao nhất thế giới, và trong 2 thập kỷ qua tỷ lệ đó còn tiếp tục tăng lên. Nếu như vào thời điểm 1990 tỷ lệ tiết kiệm của TQ là khoảng 39%, thì con số đó tăng lên đến mức 53% vào năm 2008, tức là tư nhân và Nhà nước chỉ tiêu thụ 47% tổng tài sản làm gia, còn lại là tiết kiệm. Để so sánh, cũng quãng năm 2008, tỷ lệ tiết kiệm ở Ấn Độ đạt khoảng 30%, ở Việt Nam đạt khoảng 35%, còn ở các nước tư bản phát triển thì thấp hơn, chẳng hạn ở Pháp đạt khoảng 20%, và ở Mỹ chỉ khoảng 13%. Nếu chỉ tính tư nhân, thì tỷ lệ tiết kiệm của tư nhân (thu nhập trừ đi chi tiêu của tư nhân) ở TQ vào năm 2008 vào quãng 28%, so với các nước khác: Ấn Độ 32% (tăng lên mạnh từ mức 20% vào năm1998), Pháp 15%, Đức 11%, và ở Mỹ chỉ có hơn 2%. (Số liệu lấy từ nhiều nguồn khác nhau)4.


Country 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010

Australia 2 3.5 0.6 -0.5 -0.4 -0.2 1.3 1.5 1.6 4.3 2.8

Canada 4.7 5.2 3.5 2.6 3.2 2.1 3.5 2.5 3.7 5 3.8

Denmark -4 2.1 2.1 2.4 -1.3 -4.2 -2.3 -3.2 -2.4 3.2 4.9

Germany 9.2 9.4 9.9 10.3 10.4 10.5 10.5 10.8 11.2 11.3 12

Hungary 8.9 8.5 6.4 4.3 6.8 6.1 7.5 4.6 3 3.7 5.3

Italy 8.4 10.5 11.2 10.3 10.2 9.9 9.1 8.2 8.6 8.4 7.7

Japan 8.7 5.1 5 3.9 3.6 3.9 3.8 2.4 2.3 2.3 2.4

Korea 9.3 5.2 0.4 5.2 9.2 7.2 5.2 2.9 2.9 3.6 3.5

Poland 10.2 12 8.2 7.6 7.7 6.9 6.5 7.1 3.9 6.3 6.4

Switzerland 11.7 11.9 10.7 9.4 9 10.1 11.4 12.7 12.8 15.3 15

United States 2.9 2.7 3.5 3.5 3.4 1.4 2.4 1.7 2.7 4.3 3.4

Greece -6 -7.5 -8 -7.3 -7.2 -8 -7.3

Euro area 8.4 9.2 9.7 9.4 9.3 8.6 8.2 8.3 8.9

Chile 6.5 7 6.8 6.4 7.2 7.1 7.7 7.7

Estonia -3 -4 -6.5 -8.4 -11.7 -10.4 -9.6 -5.2

France 15 15.7 16.8 15.7 15.8 15 15 15.5 15.3 16.3 15.6

Portugal 10.2 10.9 10.6 10.5 9.7 9.2 8.1 6.1 6.4 8.8 6.9

UK 4.7 6 4.8 5.1 3.7 3.9 2.9 2.2 1.5 7 6.4

Bảng trên: Tỷ lệ tiết kiệm của các gia đinh (tính trên thu nhập đa trừ thuế) ở một số nước thuộc OECD trong các năm 2000-2010. (Nguồn: OECD). Những nước nào có tỷ lệ tiết kiệm thấp thì dễ suy thoái hay khủng hoảng. Ví dụ Hy Lạp gần như vỡ nợ vào năm 2010.


Các khoản tiết kiệm được thể hiện ở đâu?
Nó thể hiện ở những tài sản bền vững tồn tại lâu dài và những khoản đầu tư, như nhà cửa, công ty, máy móc, khoa học và công nghệ mới, v.v., và những khoản đầu tư ra nước ngoài: các công ty ở nước ngoài, các dự trữ tài nguyên mua được của nước ngoài, các khoản cho nước ngoài vay, v.v. Tổng cộng các khoản đầu tư của TQ ra nước ngoài có thể ước lượng cỡ vài nghìn tỷ USD. Riêng các khoản TQ cho Mỹ vay (chủ yếu dưới hình thức mua trái phiếu) đã lên tới một con số khổng lồ là 1700 triệu USD vào năm 2010. Ngoài ra, TQ còn mua quyền khai thác hay mua các công ty khai thác dầu mỏ, khoáng sản, rừng, đất nông nghiệp, v.v. ở khắp mọi nơi trên thế giới, và còn mua cổ phần hay mua đứt nhiều công ty nước ngoài. Một ví dụ gần đây: hãng xe Geely của TQ, có tiếng xấu là sản xuất xe không đảm bảo độ an toàn, vào năm 2010 đa mua đứt lại hãng xe Volvo, một hãng nổi tiếng về chất lượng xe tốt. Công ty đầu tư CIC (China Investment Corporation) của Chính phủ TQ nắm trong tay 300 tỷ USD để đi đầu tư các nơi trên thế giới.

Có tiết kiệm thì mới có tiền đầu tư (mà không phải vay nợ), và tỷ lệ đầu tư cao thì tăng trưởng kinh tế nhanh. Nếu giả sử là số tiền đầu tư mới mỗi năm ở TQ tương đương với 40% GDP, và chỉ số hiệu quả đầu tư ICOR là 4 5, thì đủ để cho TQ giữ được tăng trưởng kinh tế ở mức 10%/năm. (Đây là ví dụ minh họa chứ không hẳn là con số thực tế, nhưng cho thấy ảnh hưởng của mức tiết kiệm và đầu tư trong nước đến tăng trưởng kinh tế, chưa tính đến các đầu tư của TQ ở nước ngoài mang về lợi nhuận mà không hiện lên trong GDP).

Khi có tiền tiết kiệm, dự trữ, thì nền kinh tế cũng an toàn, ổn định hơn là nếu đi vay để đầu tư và tiêu xài. Năm 2008 xảy ra khủng hoảng tài chính toàn cầu khiến cho nhiều nước lao đao, kinh tế đi xuống (tốc độ tăng trưởng âm) trong năm 2009. Nhưng TQ năm 2009 vẫn tăng trưởng ở mức rất cao là 8.7%, một mức mà ở nhiều nước khác lúc kinh tế thuận buồm xuôi gió nhất cũng không mơ đạt được. Đó chính là do TQ có nhiều tiền dự trữ, có thể tung ra gói kích cầu khổng lồ 600 tỷ USD vào cuối năm 2008 để kích thích kinh tế (trong khi các nước khác cũng muốn kích cầu, nhưng không có tiền để có thể làm mạnh như vậy). Khủng hoảng tài chính 2008 đã làm cho các nước «tư bản già cỗi» cũng như một loạt các nước đang phát triển yếu đi, nhưng lại làm cho TQ mạnh lên, nhờ thế mạnh dự trữ tài chính của họ.

Vì sao tỷ lệ tiết kiệm ở TQ lại rất cao? không những cao hơn rất nhiều so với các nước giàu, mà còn cao hơn nhiều so với cả các nước nghèo. Thứ nhất là truyền thống cần kiệm của người TQ: có thể làm việc rất nhiều mà không kêu ca, và có tinh thần tiết kiệm cao. Kể cả các Hoa kiều sống ở các nước giàu, có thu nhập cao, nhưng vẫn giữ thói quen tiết kiệm: nhiều khi ghế rách còn ngồi được thì vẫn dùng mãi không chịu vứt đi thay cái khác. Thứ hai là, tuy thu nhập bình quân đầu người ở TQ hiện nay đã vào loại khá, không còn là nước nghèo nữa, nhưng phân chia rất không đều: có một tỷ lệ nhỏ gười giàu lên nhanh, với mức sống không kém gì phương Tây ở các thành phố lớn; nhưng phần lớn dân số (đặc biệt là những người ở vùng nông thôn) vẫn rất nghèo và sẵn sàng lao động với mức lương rẻ mạt chưa bằng 1/10 so với mức lương phương Tây cho cùng công việc. Lực lượng đông đảo đó không có nhiều tiền để tiêu dùng, và do vậy mức tiêu dùng chung ở TQ thấp. Một lý do nữa là, đồng RMB (Nhân dân tệ) được giữ ở giá thấp so với USD góp phần làm giảm lượng tiêu thụ hàng ngoại ở TQ.

Một báo cáo của IMF (quĩ tiền tệ quốc tế) năm 20096 viết như sau: mức tiết kiệm tư nhân cao chưa chắc đã phải là điều tốt. Nó có thể là dấu hiệu của một hệ thống bảo hiểm xã hội tồi, khiến cho người dân buộc phải tiết kiệm để đề phòng lúc cơ nhỡ. Và nó cũng có thể chứng tỏ là quản lý doanh nghiệp kém, khiến cho các doanh nghiệp có thể giữ lại phần lớn lợi nhuận mà không chịu chi trả cho cổ đông.

Có những người viện vào những lý do như trong báo cáo IMF nhắc tới phía trên để coi nhẹ đi tầm quan trọng của tỷ lệ tiết kiệm cao ở Trung Quốc. Họ còn cho rằng nước Mỹ, một nước hiện có mức tiết kiệm vào loại thấp nhất thế giới, nếu tăng tiết kiệm lên sau đợt khủng hoảng tài chính 2008 thì sẽ chậm phục hồi kinh tế sau khủng hoảng (?!). Tuy nhiên, tỷ lệ tiết kiệm sụt giảm ở Mỹ trong suốt mấy thập kỷ qua (nhân dân «được» thúc đẩy tiêu dùng quá nhiều, quá khả năng, theo kiểu «xã hội tiêu thụ») chính là một trong các nguyên nhân chính dẫn đến sự giảm sút thế lực kinh tế của Mỹ so với thế giới, nợ nước ngoài và thâm thụt cán cân thương mại trầm trọng của Mỹ trong những năm qua. Nếu Mỹ vực kinh tế dậy bằng cách tiếp tục kích thích tiêu pha quá khả năng, không tiết kiệm (như lời khuyên của một số nhà kinh tế), thì chỉ là đào hố sâu thêm cho mình.

Đối với các nước đã phát triển, vẫn phải giữ một tỷ lệ tiết kiệm tương đối (ví dụ như Pháp và Đức, với tỷ lệ tiết kiệm tương đối lớn), mới giữ được sự phát triển bền vững. (Thu nhập ít nhưng chi phí thấp, có nhiều của cải dự trữ thì cuối cùng vẫn giàu hơn là thu nhập cao nhưng chi phí cao, không có dự trữ). Muốn phát triển nhanh, từ nghèo khó trở nên giàu có, thì phải tiết kiệm nhiều. TQ hiểu rất rõ vấn đề này.

Trong những năm tới, khi hàng hóa TQ trên các thị trường quốc tế đã bão hòa, TQ sẽ buộc phải tăng tiêu thụ nội địa nếu muốn tiếp tục phát triển sản suất, không thì tất yếu sẽ dẫn đến khủng hoảng thừa. Điều này kéo theo là mức tiết kiệm của TQ sẽ phải giảm dần đi. Đến lúc mà TQ đạt thu nhập bình quân đầu người ngang bằng với các nước giầu hiện nay, thì tỷ lệ tiết kiệm cũng sẽ phải giảm đến một «mức tiết kiệm theo nguyên tắc vàng» (golden rule saving rate)7

Sức mạnh tỷ người


Vào năm 2010, nước TQ có 1.340 triệu người, đông nhất thế giới, và bằng 20% của toàn thế giới. «Sức mạnh tỷ người» này là một lợi thế lớn của TQ trên trường quốc tế. Với dân số đông gấp hơn 4 lần Mỹ, chỉ cần đạt mức thu nhập bình quân đầu người bằng 1/4 Mỹ cũng sẽ đủ để TQ vượt lên trên Mỹ thành nước có nền kinh tế lớn nhất thế giới.

Đối với các doanh nghiệp xuyên quốc gia (multi-national), thì thị trường TQ là quá lớn để mà có thể bỏ qua, và doanh nghiệp nào cũng mơ ước chiếm lĩnh được thị trường này. Bởi vậy từ khi cải cách kinh tế và mở cửa với Tư bản vào năm 1978 và thiết lấp các «vùng kinh tế đặc biệt»8 (đấy là những vùng mà nước ngoài được đầu tư trực tiếp, với các luật lệ ưu đai tự do hơn các vùng còn lại) từ những năm 1980, TQ đã không khó khăn gì trong việc thu hút đầu tư của tư bản nước ngoài.

Biết được lợi thế thị trường lớn của mình, nên TQ có thế mạnh trong đàm phán thương mại với nước ngoài. Thông thường, để vào được thị trường TQ, các hãng phải nhân nhượng về chuyện chuyển giao công nghệ cho TQ, và lắp đặt sản phẩm tại TQ. Ví dụ, đi kèm thỏa thuận mua máy bay A320 của Airbus, TQ đạt được thỏa thuận lắp máy bay đó tại TQ, trong một công ty với 49% vốn thuộc về TQ. Chiếc A320 đầu tiên sản xuất tại TQ đa ra lò năm 2009.


Shenzhen9 (Thâm Quyến, thuộc tỉnh Quảng Đông, gần Hồng Kông), ví dụ điển hình của vùng kinh tế đặc biệt, trong vòng 20 năm đã biến từ một làng nhỏ thành một thành phố trù phú và là trung tâm tài chính với 10 triệu dân. (Ảnh lấy từ internet)


Thị trường nội địa lớn cũng giúp cho các công ty TQ, đặc biệt là trong các lĩnh vực cần có «economy of scale», dễ tồn tại và phát triển. Tất nhiên, dân số đông quá thì không những chỉ có lợi, mà cũng có thể có hại, vì bùng nổ dân số kéo theo nhiều vấn đề về xã hội và môi trường, và đông dân quá thì không đủ của cải và tài nguyên thiên thiên để mà thỏa mãn các nhu cầu. Chính phủ TQ cũng nhận thấy là nước họ đa đông dân đến mức báo động, và trong nhiều năm kể từ 1979 áp dụng khắt khe chính sách «1 con» nhằm hạn chế tăng dân số. Theo ước tính, chính sách 1 con đã làm bớt đi 250 triệu lượt sinh đẻ ở TQ trong quãng thời gian từ 1979 đến 2000 (tức là nếu không có chính sách này, thì dân số TQ sẽ còn tăng thêm 250 triệu người nữa)10. Nếu như trong vòng 50 năm 1950-2000 dân số TQ tăng hơn gấp đôi, từ 550 triệu lên hơn 1200 triệu, thì dự kiến trong giai đoạn 2000-2050 dân số TQ sẽ chỉ còn tăng thêm khoảng 10%, và có nhiều khả năng giảm đi kể từ 2030.


Biểu đồ dân số TQ (lấy từ internet)


Không nhất thiết phải đông dân mới lợi thế và phát triển được, mà còn phụ thuộc vào tổ chức nội bộ tốt và đối ngoại khôn khéo. Ví dụ, Thụy Sĩ chỉ có 8 triệu dân nhưng là một trong các nước giàu có và hạnh phúc nhất thế giới. Nhưng dù sao, đất rộng người đông hơn các nước khác là một lợi thế không nhỏ trong các quan hệ đối ngoại, nếu như giữ được đất nước thống nhất và chính quyền Trung ương mạnh. Cái mà TQ sợ là đất nước «chia 5 xẻ 7», như đã từng xảy ra trong lịch sử TQ, sẽ làm TQ yếu đi. Chính vì điểm này nên TQ nhất quyết không muốn Đài Loan hay Tây Tạng độc lập. Cũng chính vì đoàn kết là sức mạnh nên TQ dùng chính sách chia để trị trong quan hệ đối ngoại, chia rẽ các nước hay các miền của một nước để ngăn không cho các đối thủ của mình mạnh lên nhiều. Chuyện đàm phán với các nước ASEAN về Trường Sa - Hoàng Sa là một ví dụ: TQ đoi đàm phán tay đôi với các nước chứ không đàm phán đa bên, vì nếu các bên kia thỏa thuận đoàn kết được với nhau thì làm yếu thế TQ.

(Xem tiếp kỳ sau:
Quân bài nhân công rẻ mạt; Chính sách đồng tiền yếu; Chủ nợ của thế giới).

------------

* Bài phân tích này được viết sau khi tôi đọc cuốn sách «Le Vampire du Milieu: Comment la Chine nous dicte sa loi» của hai tác giả Philippe Cohen (Tổng biên tập tạp chí Marianne của Pháp) và Luc Richard (một nhà viết bình luận đã sống 10 năm qua ở TQ), xuất bản ở Pháp năm 2010. Quyển sách đó có rất nhiều thông tin thú vị và cập nhật (cho đến năm 2010) về TQ, và tôi có trích dẫn lại nhiều tin đó trong bài viết này, kể cả những chỗ không ghi cụ thể là có trích từ sách. Tuy nhiên, về mặt phân tích thì tôi không theo hai tác giả này (mà tôi cho là quá lo sợ và nghi kị TQ), và muốn có cái nhìn khách quan hơn về TQ. Để viết bài này, tôi có tham khảo thêm nhiều tài liệu khác về TQ.

1 Vì các tư liệu tôi tham khảo chủ yếu là nguồn nước ngoài, nên sẽ dùng phiên âm nước ngoài của các danh từ riêng tiếng TQ, từ nào mà tôi biết phiên âm Hán-Việt thì sẽ chú thích thêm phiên âm Hán Việt vào.
2
Xem: http://en.wikipedia.org/wiki/Deng_Xiaoping
3
Xem: http://en.wikipedia.org/wiki/Chinese_economic_reform
4
Xem thêm chi tiết về tỷ lệ tiết kiệm ở TQ: Xinhua He, Yongfu Cao, Understanding high saving rate in China,
5
ICOR = incremental capital output ratio. ICOR = 4 tức là cần đầu tư thêm 4 đồng để tăng sản lượng hàng năm thêm 1 đồng. ICOR càng thấp thì hiệu quả đầu tư càng cao. Đài Loan từng đạt ICOR 3, TQ có ICOR > 4 trong những năm gần đây, còn VN có ICOR > 5.
6
Olivier Blanchard and Gian Maria Milesi-Ferretti, Global Imbalances: In Midstream?, IMF Staff position note, 22/12/2009.
7
Xem: http://en.wikipedia.org/wiki/Golden_Rule_savings_rate
8
Xem: http://en.wikipedia.org/wiki/Special_Economic_Zones
9
Xem: http://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A2m_Quy%E1%BA%BFn
10
Xem: http://news.bbc.co.uk/2/hi/asia-pacific/941511.stm



Nguồn:
KẺ KHỔNG LỒ BÊN CẠNH TA - TẠP CHÍ TIA SÁNG

Entries liên quan:
GIAN LẬN HỌC THUẬT Ở TRUNG QUỐC
TRUNG QUỐC XÂY NHÀ MÁY ĐIỆN HẠT NHÂN SÁT BIÊN GIỚI VIỆT NAM
BẠC HY LAI - ÔNG LÀ AI?
TRUNG QUỐC BỊ CHIA NHỎ VÀO 2050?



1/8/10

THUYỀN RÙA VÀ THUYỀN CỔ LÂU


Đỗ Thái Bình

Đọc cuốn tự truyện kể lại đời mình của ông chủ tập đoàn Hyundai, có lẽ ai cũng phải xúc động trước ý chí, quyết tâm dời non lấp biển của Chung-Ju-Yung. Sau những thành công trong xây dựng, người thợ hồ học vấn tiểu học ở tuổi năm 55 nhảy sang lĩnh vực đóng tàu.

Cần có số vốn 80 triệu USD để dựng nhà máy, Chung đã sang London, cố thuyết phục Ngân hàng Barclays. Bằng cấp anh đâu? Quá trình kinh nghiệm đóng tàu của anh đâu? Chẳng có một tấm bằng đại học hay thạc sĩ tiến sĩ, chẳng có một giấy tờ nào bảo lãnh của Nhà nước Hàn Quốc, nhưng trong trái tim Chung nồng cháy một tình yêu đất nước, biển cả và sự nghiệp.

Chung rút tờ giấy bạc 500 won ra đặt lên bàn ông giám đốc ngân hàng, một đồng tiền trên có in hình chiếc thuyền rùa (ảnh trên), tiếng Hàn gọi là Geobukseon, một loại thuyền chiến bọc sắt của Hàn Quốc, cũng được coi là thuyền bọc sắt đầu tiên trên thế giới và hét lên: đây là kinh nghiệm truyền thống đóng tàu của chúng tôi!!! Qua nhiều lần thuyết phục Barclays, và giải trình cả với con trai chủ tàu Onasis, một ông vua biển Hy Lạp - người đã lấy bà vợ góa của Tổng thống Kennedy - cuối cùng Chung đã có số tiền khổng lồ lúc đó để khởi nghiệp đóng tàu của mình cũng là của Hàn Quốc, hiện nay đang đứng nhất nhì thế giới!

Chiếc thuyền rùa này thực sự là một đóng góp của Hàn Quốc vào trong lịch sử hàng hải thế giới và chính mắt tôi đã thấy mô hình một chiếc thuyền như vậy tại Viện Bảo tàng Hải quân Hoa Kỳ ngay giữa thủ đô Washington trong chuyến thăm vào mùa hè năm 2008. Bằng đội quân thuyền rùa này, Đô đốc Yi Sun-sin (1545-1598), một trong những nhân vật được tôn kính nhất trong lịch sử Hàn Quốc, đã chỉ huy hàng loạt những cuộc tấn công của thủy quân oanh liệt trên biển chống lại đội quân của Nhật Bản.


Được đóng ở Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX, con tàu được đặt tên là Song Saigon,
về sau được đổi tên lại thành La boudeuse.
Con tàu này đã có một khoảng thời gian dài tung hoành ở châu Âu
trước khi bị chìm ở Địa Trung Hải.

Trong lịch sử chúng ta cũng có một chiếc thuyền chiến đấu không kém gì thuyền rùa vào thời kỳ này,với sự đóng góp của Hồ Nguyên Trừng (1374-1446). Trước họa xâm lăng của nhà Minh, nhà Hồ đã phải lo củng cố quốc phòng. Năm 1404 Hồ Hán Thương cho chế tạo thuyền Cổ lâu là một loại thuyền chiến lớn đóng đinh sắt, có hai tầng boong với hàng chục tay chéo với hai người điều khiển một mái chèo, có tên gọi là Trung tàu tải lương, Cổ lâu thuyền tải lương, nói là để chở lương nhưng cũng sẵn sàng chiến đấu.

Thuyền được trang bị súng Thần Cơ, một sáng tạo khác của Hồ Nguyên Trừng là một loại hỏa pháo cải tiến hiệu nghiệm hơn tất cả các loại đại bác đương thời. Nhà Minh đã bắt giữ rồi áp tải ông về Bắc Kinh và sau đó tận dụng tài năng của Nguyên Trừng với chức vụ tả thị lang bộ Công. Hiện nay tài liệu về những con thuyền Cổ lâu còn lại rất hiếm hoi vì như ta đã biết, với chính sách đốt sạch, giết sạch “nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ” nhà Minh đã hủy hoại tất cả những gì còn lại, nhưng ta tin là con thuyền này là có cơ sở chắc chắn vì ta biết rằng thời nhà Hồ, nước ta có những người thợ mộc, những người đóng tàu thuyền gỗ, những nhà thiết kế kiến trúc giỏi, điển hình là Nguyễn An (1381-khoảng 1460), một nhân vật mà người Trung Quốc biết rõ hơn người Việt Nam ta!

Quả thật, về nhân vật lỗi lạc này chỉ thấy Lê Quí Đôn nhắc tới qua hơn 10 dòng trong cuốn “Kiến văn tiểu lục”. Còn ở Trung Quốc thì Nguyễn An được nhắc tới trong nhiều thư tịch từ thời trung đại tới thời hiện đại. Ví dụ, từ những cuốn “Hoàng Minh thông kỷ”, “Anh Tông chính thống thực lục”… của thời Minh tới cuốn “Trung - Việt quan hệ sử luận văn tập” của nhà sử học Trương Tú Dân xuất bản tại Đài Bắc (Đài Loan) năm 1992. Trong công trình nghiên cứu quan trọng về giao lưu tiếp biến văn hóa Việt Nam - Trung Quốc này, Trương Tú Dân đã dành tới bốn chương viết về Nguyễn An. Trương Tú Dân đã làm việc nhiều năm tại Thư viện Quốc gia Bắc Kinh và là người nghiên cứu kỹ lưỡng nhất về Nguyễn An. Nhiều nhà nghiên cứu nước ngoài đã khẳng định chính Nguyễn An là người thiết kế và chỉ huy xây dựng thành Bắc Kinh!

Tòa cao ốc mà Vinashin dự định xây dựng bên bờ sông Sài Gòn

Nhắc lại chuyện thuyền Cổ lâu vì 500 năm sau, có một tập đoàn nước ta - tập đoàn Vinashin - cũng muốn lớn mạnh hung hậu như Hyundai, cũng bắt chước nhiều cung cách làm ăn như Hyundai: xây dựng nhà máy đóng tàu lớn, đón đầu xu thế thị trường, dùng các con tàu mới đóng chưa có chủ tàu bổ sung vào đội thương thuyền đi khắp thế giới vừa quảng cáo thương hiệu vừa tìm cơ hội bán tàu, kinh doanh nhiều ngành nghề… Tên Vinashin gắn với Hyundai tại một nhà máy sửa chữa và đóng tàu tại Nha Trang, thế giới thì biết đó là một cơ sở chữa tàu có chất lượng và có lãi to, còn dân ta thì biết nó là một tai họa về môi trường!

Để có vốn, cũng như Hyundai, Vinashin phải tìm tới các ngân hàng thế giới, lần này là thị trường chứng khoán New York. Trong khi ông Chung Hyundai phải rút tờ bạc 500 won để thuyết phục các ngân hàng thì các ông Vinashin có lẽ chẳng phải làm gì vì đã có một cái bảo lãnh cực kỳ lớn: cả dân tộc Việt Nam, nước Việt Nam được đưa lên bàn bảo lãnh và vay ngay được số tiền cực lớn 750 triệu USD… Đồng tiền đến quá dễ dàng (?) và được chia sẻ tiêu pha rất nhanh, như báo chí đang phanh phui.

Không rõ các ông cầm đầu Vinashin có biết tới thuyền Cổ lâu như ông Chung Hyundai thuộc lòng con thuyền rùa của nước mình hay không, nhưng chúng ta thử lên thăm ngôi nhà năm tầng đường Ngọc Khánh Hà Nội, trụ sở tạm thời của Vinashin trong khi chờ đợi tòa tháp building cao lớn hình chữ V giống như logo của mình. Một chiếc neo to lớn chắn ngang hè phố, những mô hình con thuyền buồm căng phồng gió đại dương có mặt tại sảnh lớn cũng như các phòng chủ tịch, tổng giám đốc… Nhìn kỹ, đó không phải là ghe bầu, ghe nang, thuyền buồm cánh dơi hay thuyền trống đồng Đông Sơn, mà là thuyền Tây, những chiếc clipper, và lớn nhất là chiếc tàu buồm France –II đặt tại ô cửa kính nhìn ra mặt phố!

Phòng khách của Tập đoàn Kinh tế Vinashin trưng bày mô hình
chiếc tàu buồm France II của Pháp


Ta mong tìm thấy tấm hình của một con người làm nghề đóng tàu, ví như Ngô Văn Năm, người anh hùng lao động, công nhân Ba Son thứ thiệt, người thợ phóng dạng ham học hỏi, từng “lục trong thùng rác những bản vẽ mà chủ Tây xé đi, ghép lại để học hỏi” – như kỹ sư đóng tàu Trịnh Xương thường kể lại. Ngô Văn Năm còn là thủ trưởng đầu tiên của Vinashin, khi tập đoàn còn đang trong giai đoạn trứng nước với tên gọi là Cục Cơ khí Bộ Giao thông, nơi đã sản sinh ra các con tàu không số, các con tàu Giải phóng, các tàu phá lôi… phục vụ cho chiến thắng ngày hôm nay.


Nguồn:
Thuyền rùa và thuyền Cổ lâu - Tạp chí Tia sáng
Entries liên quan:
CÂU CHUYỆN "CÁI LƯỠI BÒ"
QUÀ VIỆT NAM
ADOPT VÀ ADAPT
THÙNG RỖNG HAY LÀ...



28/6/10

NỖI LO ĐƯỢC MÙA COCA



Bốn năm liên tiếp được mùa coca ở Peru khiến người ta thực sự lo ngại rằng đất nước này sắp đuổi kịp người bạn láng giềng Colombia về diện tích canh tác cây coca. Báo cáo của Liên Hợp Quốc công bố ngày 22.6 cho thấy diện tích trồng coca ở Colombia giảm 16%, trong khi ở Peru lại tăng 6,8%.

Colombia, Peru và Bolivia là ba nước trồng coca nhiều nhất thế giới. Theo báo cáo của LHQ, tổng diện tích trồng coca ở ba nước này giảm 5.3% trong năm 2009. Sở dĩ có con số này là nhờ vào mức giảm mạnh ở Colombia, bởi tại Bolivia diện tích trồng coca vẫn tăng 1%. Tổng diện tích trồng coca ở từng nước là: 59 nghìn hécta tại Peru, 69 nghìn hécta tại Colombia và 30,9 nghìn hécta tại Bolivia.

Bản báo cáo “Tổng quan về canh tác coca và chế biến cocaine” của Cơ quan chống ma tuý và ngành tình báo Mỹ năm 1993 cho hay Peru có cả diện tích trồng coca hợp pháp lẫn bất hợp pháp. Những người nông dân trồng caca hợp pháp phải đăng ký với Cơ quan độc quyền coca quốc gia (ENACO). ENACO mua và bán lá coca cho các đại lý để bán lại phục vụ nhu cầu tiêu thụ trong nước như nhai hay pha thành trà, hoặc xuất khấu để sản xuất hương liệu nước giải khát và dược phẩm. Peru có khoảng 18 nghìn hécta coca hợp pháp, chủ yếu tại vùng Cuzco.

Diện tích canh tác coca bất hợp pháp chủ yếu ở Thung lũng Thượng Huallaga ở miền bắc Peru và một số khu vực thuộc các địa phương San Martin, Huanuco và Ucayali. Ở độ cao 595 - 792m so với mặt nước biển, Thung lũng Thượng Huallaga là khu vực nhiệt đới, khí hậu ôn hoà, nhiệt độ trung bình năm 13 độ C, lượng mưa trung bình 4000mm/năm, đất giàu sắt - nguyên tố thích hợp để cây coca phát triển.


Trồng coca là một tập tục canh tác truyền thống của người Peru có từ đế chế Andean Inca (thế kỷ XII). Người Inca sử dụng coca vào các mục đích tôn giáo và y tế. Cho đến nay, một bộ phận người Peru vẫn coi thói quen nhai lá coca như một giá trị văn hoá truyền thống.

Điều đáng lo ngại là diện tích trồng coca tại Peru tăng gần gấp đôi trong vòng một thập niên qua. Ông Romulo Pizarro, Giám đốc Cơ quan chống ma tuý của Peru, tỏ ra thất vọng về sự tăng trưởng mạnh này mặc dù đã có nhiều nỗ lực trong việc chặt phá cây cacao và những chương trình phát triển thay thế. “Những kẻ buôn lậu ma tuý không khoanh tay ngồi nhìn. Nhu cầu trên toàn thế giới tăng” – ông Pizarro nhận xét.

Thời gian gần đây, tàn quân của phong trào phiến quân Con đường Sáng (đã từng khủng bố Peru trong thập niên 1980-1990) tham gia ngày một nhiều vào việc buôn lậu cocaine. Không những thế, các băng buôn lậu ma tuý của Colombia và Mexico cũng coi Peru là địa bàn mở rộng phạm vi hoạt động vì việc thực thi pháp luật ở đây khá lỏng lẻo. Ông Aldo Lale-Demoz, Giám đốc Văn phòng chống ma tuý của LHQ tại Colombia, phát biểu trước báo giới tại Bogota ngày 22.6 rằng việc giảm diện tích canh tác coca ở Colombia có nghĩa là có thể “chuyển giao, lặp lại và nhân rộng những nỗ lực triệt phá cây coca sang những nước khác”.


Tuy nhiên, các nhà phân tích cho rằng những con số nêu trong báo cáo của LHQ cho thấy cuộc chiến tranh chống ma tuý hơn ba thập niên qua mà chính quyền Washington thực thi ở khu vực Mỹ Latinh nhằm xoá bỏ cây coca đã thất bại, tiêu tốn hàng tỉ đôla.

“Bức tranh chung mà chúng ta hiện có đó là sự ổn định về tổng sản lượng coca trên toàn bộ khu vực Andes (rặng núi chạy dọc sườn phía tây của Nam Mỹ). Nếu theo dõi kỹ trong 20 năm qua, sản lượng coca duy trì tương đối ổn định” - bà Coletta Youngers, nghiên cứu sinh cao cấp của Văn phòng Washington về Mỹ Latinh tại thủ đô Hoa Kỳ, nhận xét. Theo bà Youngers, lực lượng chống ma tuý tại Peru được trang bị nghèo nàn, huấn luyện sơ sài.

Vấn đề lớn nhất ngăn cản những nỗ lực chống ma tuý là nạn tham nhũng ở cả cấp quốc gia lẫn cấp địa phương. Chính quyền của Tổng thống Barack Obama chú trọng nhiều hơn đến việc khuyến khích nông dân Mỹ Latinh loại bỏ coca, chuyển sang trồng cocoa và sắn.

Colombia mỗi năm nhận được nửa tỉ đôla viện trợ của Mỹ đã tập trung đánh mạnh vào nạn tham nhũng trong cảnh sát và dành nhiều nguồn lực để chống ma tuý. Đây là nước duy nhất trong số 3 quốc gia sản xuất coca áp dụng hình thức phun thuốc diệt cỏ đối với cây coca từ trên không.

Nguồn:
Mỹ Latinh và nỗi lo được mùa coca - LAO ĐỘNG



 

VMC Copyright © 2009 | Power by Blogger | Template redesigned by Lý Minh Triết