Hiển thị các bài đăng có nhãn Đức. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Đức. Hiển thị tất cả bài đăng

20/7/11

"TÔI TỪNG MƠ MÌNH LÀ HOÀNG TỬ VIỆT NAM"



Bộ trưởng kinh tế Đức Philipp Rösler, 36 tuổi, một người Việt Nam được một gia đình Đức nhận làm con nuôi khi còn rất nhỏ, khẳng định rằng ông chưa bao giờ gặp khó khăn với lai lịch Việt Nam của mình.

Cuộc phỏng vấn ông Philipp Rösler do tạp chí Spiegel thực hiện ngày 19.7 xoay quanh các vấn đề về sự hội nhập của người nước ngoài với xã hội Đức, sự phân biệt đối xử, và ý nghĩa của việc trở thành một người Đức.

SPIEGEL: Bộ trưởng Rösler, ông sinh ra ở Việt Nam và được cha mẹ người Đức nhận làm con nuôi khi ông mới chín tháng tuổi. Lần đầu tiên ông chú ý đến việc ông trông khác với những đứa trẻ Đức khác là khi nào?

Philipp Rösler: Khi tôi lên bốn hay năm gì đó, ba tôi cùng tôi soi gương. Ông nói: "Con hãy nhìn vào con, rồi nhìn vào ba - chúng ta trông khác nhau. Nhưng cho dù có điều gì xảy ra và cho dù người ta có nói gì: ba vẫn là ba con".

Hồi nhỏ ông có bị trêu chọc vì ngoại hình của mình không?

Không, chưa bao giờ. Thỉnh thoảng tôi mơ tưởng mình là một hoàng tử Việt Nam bị lạc nữa. Suy nghĩ đó làm tôi thích thú. Có lúc tôi còn hỏi ba là ở Việt Nam có hoàng tử không. Ông nói là từng có vua ở đó, nhưng giờ không còn nữa. Chuyện (tôi hỏi ba) xảy ra vào khoảng năm 1980.

Với ngoại hình của mình, hồi thiếu niên ông có bao giờ hình dung đến một ngày ông trở thành phó thủ tướng Đức không?

Làm sao mà một thiếu niên có thể hình dung đến việc trở thành phó thủ tướng được? Tôi thấy người dân Đức đã rất thông cảm và chấp nhận việc tôi trông khác với một "người Đức bình thường". Ở nước ngoài, điều này hiện giờ và sau này vẫn còn gây chú ý. Tôi vừa mới tháp tùng thủ tướng (Angela Merkel) đến Washington và khi chúng tôi được đón tiếp ở Nhà Trắng, tổng thống Obama đã rất tò mò về sự nghiệp chính trị của tôi.

Có phản ứng nào từ Việt Nam khi ông trở thành chủ tịch của đảng Dân chủ Tự do (FDP) – đảng liên minh với đảng bảo có đường hướng bảo thủ của thủ tướng Angela Merkel – và phó thủ tướng Đức?

Tôi nhận được lời chúc mừng từ nhiều nước, trong đó có Việt Nam, điều đó khiến tôi rất vui. Nhưng không có mối liên hệ gì gán ghép vào lai lịch Việt Nam của tôi cả.

Những người ở Việt Nam có tự hào về Philipp Rösler?

Xe chở khách du lịch Việt Nam thường dừng ở bộ của tôi, và với nhiều người Việt Nam, đó chắc chắn là điều gì đấy đặc biệt. Nếu ai đó gốc Đức được nhận làm con nuôi và trở thành người trong chính phủ Việt Nam, chúng ta những người Đức có lẽ cũng sẽ thấy thú vị.

Ba ông có kể cho ông nghe nhiều về Việt Nam không?

Ba tôi gặp một số người Việt Nam khi ông làm phi công lái trực thăng cho không quân Đức. Trong những năm 1970, ông thường đi tập huấn ở Mỹ, nơi các phi công của quân đội miền Nam Việt Nam cũng được huấn luyện. Cuộc chiến ở Việt Nam thu hút sự quan tâm của ông, như hầu hết những người cùng thế hệ của ông. Sau đó ông nhận thấy có hai lựa chọn – hoặc là xuống đường và biểu tình, hoặc giúp đỡ theo một cách thiết thực. Ông chọn cách thứ hai và nhận nuôi một đứa trẻ Việt Nam – là tôi.

Giờ, khi ông xem những phim ảnh về chiến tranh Việt Nam, ông đứng về phía bên nào?

Không bên nào cả. Trong những phim chẳng hạn như "Platoon" của Oliver Stone, không cần có một sự phân biệt giữa thiện và ác, vì vậy tôi không thấy mình phải đứng về phía nào.

Ông có bao giờ thử học tiếng Việt chưa?

Chưa.

Ông có bao giờ ước mình trông giống một người Đức không?

Không, vì tôi là một người Đức và tôi luôn cảm thấy như một người Đức. Tôi học trường tiểu học công giáo ở vùng Harburg của Hamburg, nới có rất nhiều học sinh Tây Ban Nha và Ý. Sau ngày đầu tiên ở trường, tôi lại nói chuyện với ba: "Ba ơi, có nhiều bạn người ngoài trong lớp con". Ông đã cười lớn.

Đức có phải là một đất nước thân thiện với người nước ngoài?

Vâng, đúng vậy. Bản thân tôi chưa bao giờ có trải nghiệm tiêu cực nào (về việc này).

Nhóm người nước ngoài nào mà ông cho là sẽ gặp khó khăn ở Đức?

Điều đó khó mà nói được. Nhìn chung, yếu tố nước ngoài và yếu tố xa lạ khiến nhiều người lo sợ. Vì vậy tôi hình dung những người gặp khó khăn nhất là những người mà có vẻ rấc khác biệt với "người Đức điển hình".

Các quan điểm tích cực của ông về nước Đức có liên hệ gì với việc ông đã được lớn lên trong một môi trường được che chở không? Một cậu bé Thổ Nhĩ Kỳ ở vùng ven khó khăn của Berlin như quận Neukölln chẳng hạn có thể có một cái nhìn rất khác về nước Đức.

Không có ai giễu cợt với điều tôi được thừa hưởng. Nhưng những cậu bé Thổ Nhĩ Kỳ thường bị véo mũi vì chúng trông khác mọi người. Tôi thấy điều này không công bằng và nguy hiểm. Làm sao một người có thể cảm thấy họ là một phần của xã hội khi bị nói ngay từ đầu là: "Bạn không thực sự là một phần của chúng tôi?".

Tại sao thái độ với người nước ngoài ở Đức lại trở nên khó chịu như vậy?

Trong quá khứ, người nước ngoài được xem là làm giàu cho đất nước này. Đức cần lao động, vì vậy người Tây Ban Nha, Ý, và người Thổ Nhĩ Kỳ được chào đón. Khi nỗi lo thất nghiệp tăng lên, nỗi sợ của nhiều người về việc người nhập cư sẽ lấy mất việc làm của họ cũng tăng lên. Dù sao thì trong vài năm qua, thái độ này đã được cải thiện đáng kể.

Và tại sao tân phát xít ở phía Đông nước Đức gọi người Việt Nam là "dân Fiji" như một cách miệt thị?

Gọi người Việt Nam là dân Fiji hoàn toàn là ngu xuẩn, ít nhất là về mặt địa lý. Đảo quốc Fiji cách Việt Nam hàng ngàn km.

Ông có nhận thấy rằng người ta đang lo sợ người nhập cư không?

Luôn có hai cách ứng xử với những nỗi lo sợ như vậy. Hoặc anh đầu hàng nỗi sợ và khép kín bản thân mình, hoặc anh cố gắng cởi mở và nói cho mọi người cùng hiểu. Tôi thấy cách thứ hai thoải mái hơn.

(Theo Spiegel)

Nguồn:
Philipp Rösler: "Tôi từng mơ mình là hoàng tử Việt Nam"

Entry tham khảo:
ROESLER - NGƯỜI GỐC VIỆT THÀNH ĐẠT NHẤT THẾ GIỚI
HIỆN TƯỢNG CHÍNH KHÁCH GỐC VIỆT ROSLER



11/5/11

HIỆN TƯỢNG CHÍNH KHÁCH GỐC VIỆT ROSLER



TS NGUYỄN SỸ PHƯƠNG

Rösler trở thành bộ trưởng ở tuổi 36, trẻ nhất trong nội các Chính phủ Liên bang Đức hiện nay và nhiều khả năng sẽ giữ chức chủ tịch đảng FDP trong kỳ bầu cử sắp tới. Rösler thu hút sự chú ý đặc biệt của chính trường lẫn công luận khi trở thành Phó thủ hiến tiểu bang Niedersachsen, được coi là “vũ khí bí mật của đảng FDP”, “tương lai của FDP”.

Người ta hâm mộ ông bởi tài năng bẩm sinh “nói nhanh, sắc bén”, “điểm đúng huyệt, nhưng chừng mực, lịch sự”, “tuân thủ luật hoàn hảo, không chơi xấu đối thủ kiểu đấm bốc vào vùng cấm dưới thắt lưng, không làm tổn thương đẩy họ vào thế đối đầu”.

Sự nghiệp chính trị của ông tới nay được coi là lên nhanh một cách kỳ lạ.

Thành công nhờ xây dựng một xã hội mạnh

Tốt nghiệp phổ thông 1992, Philipp Rösler gia nhập đảng FDP, trở thành chủ tịch cấp thành phố năm 1994 (21 tuổi), cấp tiểu bang năm 1996 (23 tuổi); tổng thư ký đảng FDP tiểu bang năm 2000 (27 tuổi); trưởng đoàn nghị sĩ FDP tiểu bang năm 2003 (30 tuổi); chủ tịch đảng FDP tiểu bang năm 2006 (33 tuổi); phó thủ hiến, kiêm bộ trưởng Kinh tế năm 2009 (35 tuổi). Chỉ tám ngày sau nhậm chức phó thủ hiến (chỉ kéo dài tám tháng), đơn đệ trình của ông đòi hoãn một năm kế hoạch tăng 30% lệ phí quản lý đường hàng không, được Thượng viện bỏ phiếu chấp thuận. Chín ngày sau nhậm chức, ông triển khai chương trình kích cầu 50 tỉ euro toàn liên bang lúc đó, cho xây dựng ba tuyến đường tiểu bang kết nối với đường liên bang. Tám tháng sau, với thắng lợi kỳ bầu cử quốc hội liên bang 27.9.2009, Rösler dẫn đầu đảng FDP đàm phán thành công với song đảng Union về các chính sách cơ bản cho chính phủ liên minh, giữ chức bộ trưởng Y tế liên bang.

Thành công của chính khách bắt nguồn từ tư tưởng chính trị. Chủ thuyết của Rösler là “cần xây dựng một xã hội mạnh thay vì một nhà nước mạnh“, bởi “trật tự, pháp luật, nhà nước, tất cả chỉ là công cụ, phải phục vụ cho các giá trị xã hội, chứ không phải ngược lại“. “Một chủ trương muốn thuyết phục được dân chúng phải là chủ trương được chính họ phản biện thường xuyên...; và chỉ có thể khẳng định qua thực tế, chứ không phải suy ra từ lý thuyết. Vì thế, Rösler lại cũng là một con người thực tiễn, luôn biết rõ người dân cần gì ở mình; chính là lợi ích thiết thân của họ, chứ không phải những lời kêu gọi, đánh giá, ca ngợi rập khuôn; trang mạng cá nhân ông mang tên “sổ ý kiến“, mở ngỏ ai cũng có thể viết hoặc mở đọc, được chính ông trả lời hàng ngày.


Sự rút lui của người đứng đầu

Dù Rösler tài xuất chúng tới mấy, thì ghế chủ tịch đảng và phó thủ tướng trước đó không phải bỏ trống chờ ông. Người đứng đầu đảng FDP là phó Thủ tướng Guido Westerwelle. Sinh năm 1961, ông gia nhập đảng FDP năm 19 tuổi và nhanh chóng thành công trên chính trường: 35 tuổi nghị sĩ quốc hội, 40 tuổi chủ tịch FDP. Kỳ bầu cử quốc hội năm 2009, lần đầu tiên trong 60 năm thành lập, đảng FDP do Westerwelle đứng đầu giành được 14,6% phiếu cử tri, chiếm sáu ghế bộ trưởng trong nội các liên minh 16 thành viên.

Là biểu tượng tinh thần của đảng, quyền lực thứ hai quốc gia, trong tháng trước, Westerwelle tuyên bố không ứng cử tiếp chức chủ tịch đảng, bàn giao chức phó thủ tướng. Từng mang lại chiến thắng vang dội cho đảng FDP, ông Westerwelle chứng tỏ được bản lĩnh vĩ đại, chiến thắng bản thân khi dám thừa nhận thất bại, từ bỏ quyền lực. Ông này thẳng thắn thừa nhận: “Đó là một quyết định cực kỳ khó khăn đối với một chủ tịch đã cống hiến liên tục suốt mười năm liền (ở Đức, đại hội nhiệm kỳ đảng hai năm một lần) bằng cả trái tim đầy nhiệt huyết!” Ông coi đây là một ngày đặc biệt đối với ông bởi đã đưa ra một quyết định đúng đắn, đặc biệt đối với đảng, bởi đảng sẽ có cơ hội khởi đầu một bước ngoặt mới.

Lý do khiến ông Westerwelle rút lui là đảng FDP do ông đứng đầu mất dần sự ủng hộ. Một năm cầm quyền, đảng này chỉ còn 10% cử tri ủng hộ theo thăm dò dư luận. Tháng trước, đảng này chỉ còn 3% cử tri ủng hộ, con số thấp nhất trong lịch sử đảng FDP. Sai lầm đầu tiên là chủ trương hứa cắt giảm thuế không được nội các thông qua do không thể cân đối ngân sách. Sau đó là lời hứa giảm thuế giá trị gia tăng cho ngạch khách sạn từ 19% xuống 7% được thực thi nhưng bị phản đối trên chính trường, do mang tính giải quyết cục bộ. Việc ủng hộ kéo dài thời hạn hoạt động các nhà máy điện hạt nhân để giảm giá nhiên liệu, gặp lúc thảm hoạ nổ lò phản ứng Fukushima Daiichi ở Nhật, bị dân Đức quyết tẩy chay. Sự kiện Đức bỏ phiếu trắng, mà người chịu trách nhiệm là bộ trưởng Ngoại giao Westerwelle, khi Liên hiệp quốc biểu quyết về Libya, bị chính giới chỉ trích nặng nề, cho là lần đầu tiên trong lịch sử, CHLB Đức đã tự cô lập trên trường quốc tế. Phát ngôn của Westerwelle đối với chính sách trợ cấp cho người thất nghiệp lâu dài, bị cả trong và ngoài đảng phản đối, khi ông so sánh chính sách đó với thời La Mã cổ đại tự tiêu vong, do tạo cho lao động không muốn cố gắng.

Hậu quả, cả ba cuộc bầu cử quốc hội tiểu bang tháng trước, thì cả ba nơi đảng FDP đều thất bại nặng nề. Tại tiểu bang Sachsen-Anhalt, từ 6,7% cử tri ủng hộ lần bầu cử trước, tụt xuống chỉ còn 3,8%, dưới ngưỡng 5% theo luật định nên không còn đại biểu trong quốc hội. Tại tiểu bang Rheinland-Pfalz thất bại tương tự, rớt từ 8% cử tri kỳ bầu cử trước xuống 4,2%. Tại tiểu bang Baden-Wüttemberg, từ 10,7% trước đây, xuống còn 5,4%, mất luôn vai trò cầm quyền. Cứ theo đà mất từ 1/3 tới 1/2 cử tri như ba tiểu bang trên, thì tương lai đảng FDP có thể sẽ bị loại khỏi quốc hội lẫn chính phủ. Điều này đặt FDP hoặc phải từ giã chính trường hoặc phải cải tổ đảng, để giành lại tín nhiệm cử tri, tuỳ thuộc giữ hay thay người đứng đầu, dù họ là ai.

Nguồn:
Hiện tượng chính khách gốc Việt Rösler

Entry tham khảo:
ROESLER - NGƯỜI GỐC VIỆT THÀNH ĐẠT NHẤT THẾ GIỚI



9/5/11

BERLIN - NHỮNG NGÀY HÒA BÌNH ĐẦU TIÊN


Cách đây 66 năm, ngày 9.5.1945, Hồng quân Liên Xô đã tiến vào Berlin,
đặt dấu chấm hết thắng lợi cho Chiến tranh Thế giới II.
Đây là chùm ảnh Berlin trong những ngày hòa bình đầu tiên.


Ảnh trên là Karlshorst ngày 9.5.1945.

2. Ký kết văn bản Đức đầu hàng, Berlin - Karlshorst, ngày 9.5.1945.

3. Nguyên soái Liên Xô Zhukov G. K. (người đứng, hàng đầu)
tại lễ ký văn bản Đức đầu hàng vô điều kiện.








4-11. Những ngày hòa bình đầu tiên ở Berlin.

12. Reichstag, Berlin. Chiến tranh đã chấm dứt.

13. Lính Đức bị thương ngồi bên Cổng Brandenburger.

14. Nữ chiến sĩ Hồng quân điều khiển giao thông bên Cổng Brandenburger.

15. Nhà thơ chiến trường Evgheni Dolmatovsky.

16. Cờ trắng trên các tòa nhà ở Berlin.


Nguồn:
С днем Победы!

BONUS:




7/4/11

ROESLER - NGƯỜI GỐC VIỆT THÀNH ĐẠT NHẤT THẾ GIỚI


Philipp Roesler đã trở thành người Việt thành đạt nhất thế giới, khi vị Bộ trưởng Y tế Đức được bầu làm Chủ tịch Đảng Dân chủ Tự do (FDP) - đảng trong liên minh cầm quyền của nữ Thủ tướng Angela Merkel. Ông chẳng những là người có nguồn gốc nước ngoài đầu tiên được bầu làm người đứng đầu một chính đảng ở Đức, mà còn là vị Chủ tịch trẻ nhất trong lịch sử của đảng này.

Philipp Roesler năm nay 38 tuổi, sinh tại Khánh Hưng (tỉnh Ba Xuyên - nay là Sóc Trăng). Khi được 9 tháng tuổi, cậu bé mồ côi người Việt này được một cặp vợ chồng người Đức nhận làm con nuôi và đưa sang Đức.

Theo Wikipedia tiếng Việt, tiểu sử của Philip Roesler như sau:

Cha mẹ nuôi của ông ly dị khi ông 4 tuổi và ông sống với cha là một quân nhân. Ông trưởng thành tại Hamburg, BückeburgHanover, nơi ông tốt nghiệp trường trung học Lutherschule với hạng A. Sau đó, ông gia nhập quân đội Đức và được đào tạo thành sĩ quan quân y nhưng về sau được miễn nhiệm vụ để theo học tại trường Đại học Y khoa Hannover.

Năm 1999, ông thực tập Y khoa tại
Bệnh viện Các lực lượng vũ trang Liên Bang ở Hamburg. Năm 2002, ông nhận được học vị tiến sĩ Y khoa. Sau khi hết thời hạn cam kết 16 năm của mình, Rösler rời quân đội như một bác sĩ chuyên ngành phẫu thuật.

Ông kết hôn với người vợ là Wiebke năm 2003. Tháng 10 năm 2008, ông trở thành cha của hai cô con gái sinh đôi. Ngoài ra, Rösler là một thành viên của tổ chức Đại hội Ủy ban Trung ương Công giáo Đức.

Philipp Rösler không cảm thấy phải tìm kiếm nguồn gốc của mình và tự xem mình là một người Đức Công giáo. Năm 2006, theo lời thúc giục của vợ, ông lần đầu tiên thăm Việt Nam, nơi ông sinh ra, nhưng ông nói rằng mối liên hệ tình cảm (đối với quê hương) đã bị hạn chế.

Từ năm 1992, Rösler trở thành một thành viên của Đảng Dân chủ Tự do (FDP) và các tổ chức chính trị thanh niên. Ông là thư ký của FDP tại tiểu bang Niedersachsen từ năm 2000 cho đến năm 2004. Từ năm 2001 đến năm 2006, Rösler là một thành viên trong hội đồng khu vực của Hannover, nơi ông cũng đã được làm phó chủ tịch nhóm nghị sĩ của Đảng trong nghị viện.

Tháng 5 năm 2005, Rösler được bầu làm quan sát viên của Ban chấp hành toàn liên bang của FDP với hơn 95% số phiếu, kết quả tốt nhất trong lịch sử đảng FDP. Tại hội nghị của FDP vào tháng 3 năm 2006, Rösler được bầu làm chủ tịch FDP tại tiểu bang Hạ Saxony. Ông thay thế Walter Hirche, chủ tịch hơn 12 năm của FDP tại Niedersachsen vừa mới từ chức. Tháng 4 năm 2008, Rösler chính thức trở thành chủ tịch FDP tại Niedersachsen với 95% số phiếu.

Tháng Sáu 2007, tại hội nghị bên liên bang đảng FDP, Rösler được tái bầu làm thành viên của Ban chấp hành Trung ương Đảng. Tháng sau, ông được bầu để trở thành ứng cử viên đảng FDP trong cuộc bầu cử nghị viện tại bang Niedersachsen sẽ được tổ chức vào tháng 1 năm 2008. Trong cuộc bầu cử đó, ông đã nhận được 10,9% số phiếu tại vùng bang nhà của mình là Hannover-Döhren. Từ năm 2003 ông là lãnh đạo phe FDP trong hội đồng lập pháp của Niedersachsen. Ngày 18 tháng 2, Rösler được bổ nhiệm làm bộ trưởng kinh tế, lao động và giao thông vận tải kiêm nhiệm phó thủ hiến của bang Niedersachsen.

Trong tháng 10 năm 2009, Rösler được chỉ định sẽ thay thế Ulla Schmidt ở ghế Bộ trưởng Bộ Y tế Đức trong nội các mới của bà Angela Merkel. Ngày 28 tháng 10, ông trở thành bộ trưởng liên bang trẻ nhất nước Đức xưa nay cũng như là người gốc Việt đầu tiên làm bộ trưởng tại một quốc gia Châu Âu.

Trở thành Chủ tịch Đảng FDP, Philipp Rosler còn giữ trọng trách Phó Thủ tướng Đức. Và chắc không có ai cấm ông mơ tới chiếc ghế Thủ tướng Đức trong một tương lai không xa.

Báo Bild có một bài viết 10 bí mật cuộc sống của Roesler. Đó là:

1- Học trường dòng, cưới bạn gái là người Phụ lễ Nhà Thờ, đỡ đầu tín ngưỡng cho ông, bà Wiebke, hiện cũng là bác sỹ, 31 tuổi.

2- Hâm mộ tài tử danh ca, dương cầm Áo, Udo Jürgens và tài tử nhạc sỹ, danh ca, diễn viên Đức Herbert Grönemeyer.

3- Thích 2 món ăn nhanh từ mỳ sợi, Đức gọi là Salz-Lakritz và Miracoli, bởi ông không có thời gian thưởng thức, tiệc tùng.

4- Từng muốn trở thành giáo viên vật lý. Khi học bác sỹ ông chọn chuyên ngành mắt bởi liên quan nhiều đến kiến thức vật lý.

5- Giỏi xướng ngôn kịch rối, khi khám chữa cho trẻ em, ông dùng bàn tay múa rối búp bê diễn trò, miệng ngậm lại nói rít qua kẽ răng, từng từ một, để thu hút chúng chú ý quên sợ hãi.

6- Thích các chuyện giả tưởng không liên quan đến đời thực, các truyện phiêu lưu, để giải toả căng thẳng trong công việc chính trị, mê truyện nhiều tập Harry Potter nổi tiếng thế giới của nữ văn sỹ Anh, bà Joanne K. Rowling.

7- Có một trí nhớ hình ảnh cực tốt. Diễn thuyết khó và dài bao lâu đều không cần bất cứ giấy tờ gì. Có thể nhớ từng từ một bài diễn văn viết, chỉ cần đọc nó chăm chú một vài lần. Hiệu quả diễn thuyết của ông lớn, nhờ thường tập luyện trước bục y như thật tại văn phòng mình.

8- Người cha là tấm gương, giáo dục cho ông 3 nguyên tắc sống: tự do, cởi mở, và khoan dung. Ông cũng muốn trở thành hình mẫu đó cho 2 cô con gái mình.

9- Là tuýp người bằng hữu, chí tình. Bất cứ ai, nhân viên, đồng nghịêp, cộng sự, đối tác, mọi cấp đều có thể tin cậy, yên tâm thảo luận với ông tất cả mọi vấn đề, không cần e dè giữ ý. Thủy chung với tình bạn, nhớ ngày sinh nhật của từng người quen biết, không vắng các dịp lễ, ngày vui của gia đình, người thân.

10- Thích chơi tàu lượn. Thiếu thời gian tập luyện nên bằng lái hiện bị mất giá.

Giới bình luận cho rằng, Philipp Roesler rất có tài cuốn hút công chúng, trước hết nằm ở giọng nói; âm vực cao tạo ấn tượng mạnh, nhưng nghe lại rất tình cảm mềm mại thấm đậm, quện nối được các câu nói với nhau rất dễ hiểu, đến mức dẫu có ai cắt riêng diễn giải từng từ một trong đó cũng khó có thể biểu đạt bằng.

Ông luôn chú ý đến phong cách nhưng không lên gân cốt, tự chủ vững vàng trong mọi tình huống. Trang phục chân phương, các hình ảnh trang web đưa lên thừơng ngày, rất hiếm khi thấy ông thiếu cà vạt. Diễn thuyết luôn sinh động, bắt chước được cả giọng nói của nhân vật thứ 3; khi cần ông có thể cùng lúc sắm cả vai đối thủ phản biện chất vấn chính mình, để làm nổi bật vấn đề.

Theo Wikipedia, VietnamNet

***
Tôi muốn lập một danh sách những người gốc Việt thành đạt, có tầm ảnh hưởng toàn cầu. Danh sách có thể mở đầu bằng những tên tuổi sau:
1. Trần Văn Thình, cựu đại sứ của Liên minh Châu Âu.
2. Phạm Linh Đan, diễn viên điện ảnh, từng đoạt giải Cesar.
...
Bạn có thể đề cử ai?



12/11/09

ĐÔNG BERLIN SAU 2200 NGÀY (PHẦN 2)



THIẾU TIỀN VÀ BỊ PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ

Vấn đề gay cấn thứ hai là thiếu tiền. Nghe chuyện thiếu tiền ở một trong những nước công nghiệp phát triển nhất thế giới quả thật là lạ. Ông Heussen cho biết riêng thành phố Berlin hiện nay cần 7 tỷ DM mỗi năm. Cả hai miền của Berlin đều được nhận viện trợ của Chính phủ Liên bang, bởi nguồn thu từ kinh tế chẳng thấm vào đâu so với những nhu cầu phải trang trải ở thủ đô rộng lớn này của nước Đức.

Trong câu chuyện tiếp theo, ông Heussen luôn dùng từ "chúng tôi" để nói chung về Berlin, nhưng chi tiết của tất cả mọi vấn đề lại chỉ tập trung vào Đông Berlin mà thôi (tôi cứ nghĩ là trong con mắt của một nhà báo Việt Nam, Đông Berlin mới là chủ đề đáng quan tâm hơn nhiều, nhưng đúng là trên thực tệ chẳng có điều gì để nói về Tây Berlin cả).

Ông Heussen cho biết, chính quyền thành phố đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng cơ sở hạ tầng ở Đông Berlin. Ông bảo: "Trông bề ngoài Đông Berlin cũng chẳng đến nỗi nào, nhưng phần lớn nhà cửa ở đây suốt 40 năm qua không được sửa chữa gì". Mãi về sau tìm hiểu tôi mới biết trong cùng một thành phố Berlin thôi, giá thuê nhà ở bên Đông chỉ bằng một nửa hoặc hai phần ba giá thuê nhà ở bên Tây. Do vậy, ngay cả những người Việt được quyền định cư lâu dài ở Đức cũng chọn thuê nhà ở bên Đông cho rẻ, mặc dù an ninh và điều kiện dịch vụ kém hơn.

Tất cả những điều đó: sự phụ thuộc vào ý thức hệ (dù là của một nửa đồng bào mình), chênh lệch về mức sống, thái độ cầu cạnh để có được việc làm đã khiến những người Đông Đức có phần nào bị lép vế ngay chính trên tổ quốc của mình.

Đi cùng tôi trong suốt chuyến đi một tuần ở Berlin là Goran, một chàng trai gốc Serbia, có xuất thân từ Munchen (bên Tây), nổi tiếng là nơi cung cấp nhân tài cho nước Đức. Tuy nhiên, do đi cùng một nhà báo Việt Nam, nên đến đâu cũng có cảm giác anh bị coi là người Đông Đức (ngày xưa, người Việt với người Đông Đức vốn thân nhau hơn mà).

Trong bữa ăn trưa thân tình cùng với quan chức đầu tiên trong lịch trình chuyến đi, vị đó nhã nhặn hỏi: "Goran, xin lỗi, anh là người của bang nào bên Đông vậy?". Tôi thoáng thấy Goran chau mày, tuy nhiên anh vẫn tươi cười: "Thưa không, tôi là người Munchen, ông ạ". Từ đó, ở bất cứ cuộc tiếp kiến nào, sau lời giới thiệu lịch thiệp với phía đối thoại Herr Vũ (ông Vũ - tức là tôi) - phóng viên một tờ báo của Việt Nam đổi mới, anh còn nói thêm: "Còn tôi là Goran M., người Munchen, nhân viên Vụ Báo chí Thông tin Chính phủ Liên bang".

Lời giới thiệu đó có hơi khoa trương, nhưng quả là cần thiết, bởi vì như thế những cuộc tiếp xúc của chúng tôi có sinh khí hơn rất nhiều. Ở vào địa vị của Goran, có lẽ tôi cũng hành động tương tự. Hơn hai hết, người Việt không chịu chấp nhận người khác nhìn mình theo kiểu từ trên xuống.

Tôi đã không gặp được Thomas. Anh không còn ở Berlin nữa. Sau khi từ Việt Nam trở về, anh bị thất nghiệp hoàn toàn. Tấm bằng đỏ về khoa học xã hội nhận được ở Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xôviết một lúc nào đó là niềm tự hào của anh nay không còn cần thiết nữa. Bà mẹ anh, một người đã về hưu non (đúng ngôn từ và khái niệm của Việt Nam), sống bằng tiền trợ cấp xã hội, nói với tôi qua điện thoại rằng anh đã phải dốc 4 năm liền để đổi lấy một tấm bằng khác.

Ngành anh học, tôi nghe lạ lắm. Mẹ anh không biết tên tiếng Anh của nghề này, theo bà, hình như nó chưa có trong bảng danh mục nghề nghiệp ở phía Đông. Trầy trật lắm anh mới xin được việc làm cho một công ty Đức ở giáp biên giới với Pháp. 35 tuổi, chưa lập gia đình. Mẹ anh bảo anh chưa có cơ sở gì để đảm bảo một cuộc sống gia đình cả.

Ngày cuối cùng tôi ở Berlin, Thomas gọi điện đến khách sạn cho tôi. Anh xin lỗi không thể dẫn tôi đi chơi khắp nước Đức như đã hứa. "Công việc của tớ (chúng tôi vẫn xưng hô thân mật với nhau bằng tiếng Nga) ở đây căng thẳng lắm. Hả... mất việc ấy à? Không... Sếp chẳng đe dọa đuổi việc bao giờ, nhưng tớ cứ thấy có một áp lực nào đó rất nặng nề. Mình lúc nào cũng phải cố gắng hơn người ta, để người ta đừng dè bỉu chê mình là người Đông. Ê này, đây là lần đầu tiên sau 5 năm tớ mới nói tiếng Nga đấy... Nghe nói bên nhà cậu (Việt Nam) đời sống tốt lắm hả?... Tớ ấy à, cuộc sống cũng tốt thôi. Nhưng "phía Tây không có gì lạ"... Thế đấy, biết là như thế, mà vẫn phải sang phía Tây. Này... ngày xưa, chúng mình hay..."

Tiếng tút tút kéo dài trong điện thoại. Có thể thẻ điện thoại của Thomas hết tiền, có thể liên lạc bị trục trặc...

Tôi chẳng biết Thomas định nói gì về quá khứ ngày xưa. Có lẽ, anh định nói về một thời tốt đẹp đã qua. Vâng, đúng là đã có một thời như thế. Nhưng có ai đó đã nói với tôi rằng bất cứ con người nào khi ngoảnh lại nhìn đoạn đường đã qua, đều nhận ra rằng quá khứ đối với mình thật đẹp.

Tôi tản bộ một mình đến Quảng trường bên cổng Brandenbourg. Một cặp vợ chồng trẻ người Việt đang quay cảnh đám cưới của mình trên quảng trường. Quên máy ảnh, tôi không thể chụp được những tấm hình đẹp đẽ đó.

Đừng chân bên sạp hàng của một người đàn ông Thổ Nhĩ Kỳ, tôi bỏ ra 5 DM để mua một mảnh nhỏ Bức tường Berlin. Đó là kỷ niệm duy nhất tôi đem về từ nước Đức.

Ghi chú: Bài đăng trên báo Lao Động số 139, ngày 19.11.1995



11/11/09

BÀI VIẾT VỀ ĐÔNG BERLIN TỪ 14 NĂM TRƯỚC



Tháng 4.1995, tôi đến thăm nước Đức lần đầu tiên. Và đây là bài viết từ chuyến đi ấy...

ĐÔNG BERLIN SAU 2200 NGÀY

Người ta bảo tôi, bộ mặt của Berlin-không-tường-ngăn hầu như không khác trước. Tôi đến Berlin lần đầu nên không thể có được bất cứ một so sánh nào. Nhưng thể theo những gì tận mắt trông thấy, thì quả đúng là vẫn còn tồn tại hai Berlin. Một Berlin tươi tắn và trẻ trung, tấp nập và sôi động, hài hoà và nhẹ nhõm về đường nét kiến trúc - đó là Tây Berlin. Một Berlin khiêm nhường, thâm trầm, vắng vẻ cũng với những ngôi nhà vuông thành sắc cạnh trông có vẻ lành lạnh - ấy là Đông Berlin.


Lúc tôi đến Berlin, Bức tường lịch sử chia cắt nước Đức trong vòng 28 năm đã sụp đổ được gần 6 năm rồi. Người Đức đang tưng bừng chuẩn bị kỷ niệm 5 năm ngày thống nhất đất nước của mình. 5 năm - khoảng thời gian ấy thật là nhanh.

Còn nhớ, lúc những chàng trai, cô gái của Đông và Tây Berlin hò reo đập phá Bức tường, tôi đang cùng với Thomas - một anh bạn người Đức quen từ hồi còn đi học ở Liên Xô ngồi uống càphê ở một quán nhỏ giữa lòng Hà Nội hồi đó vẫn rất còn yên tĩnh.
Tôi hỏi cảm giác của Thomas thế nào, vui hay buồn.

Thomas bảo: "Cậu biết không, chính tớ cũng chẳng biết nữa. Có vẻ như mọi thứ đều sẽ tốt đẹp hơn. Nhưng nếu cậu đã đi xem bói một lần, dù biết trước là số phận tuyệt vời đang đón đợi cậu, thì cậu cũng không hẳn cảm thấy yên lòng. Tớ đang ở trong cảm giác ấy... Có một điều tớ biết đích xác được rằng, nếu sắp tới cậu sang Đức, tớ đã có thể dẫn cậu đi tất cả mọi nơi và giới thiệu cả nước Đức cho cậu..."


Còn bây giờ gần 6 năm đã trôi qua. Thời gian hầu như chưa làm được gì cả, loại trừ việc các mảnh vỡ của Bức tường đã được dọn sạch, đem bảo quản ở một nơi nào đó. Những mảnh vỡ đó được cắt thành những mảnh rất nhỏ, được đóng dấu của Toà Thị chính Berlin bảo đảm là tường thật, được đặt vào một chiếc hộp nhựa trong suốt, xinh xắn rồi đem bán dần cho các du khách ngoại quốc như một cách tạo thêm việc làm cho những người Di Gan hay những tay buôn bán cò con gốc Thổ Nhĩ Kỳ.


THẤT NGHIỆP TRÀN LAN

Tôi đến Toà Thị chính Berlin vào đầu ngày làm việc. Tiếp tôi là ông Eduard Heussen - người phát ngôn của Thị trưởng. Ông Heussen chưa kịp ăn sáng, nên cùng uống càphê với vị khách đến từ Việt Nam rất tự nhiên, không tỏ vẻ kiểu cách gì. Chưa mãn tuần càphê, dường như hiểu được những gì tôi nghĩ, ông Heussen bảo: "Chúng tôi đang cố gắng để có được một Berlin bình thường".


Từ ông dùng nghe mà thấy lạ, chẳng lẽ Berlin hiện nay là không bình thường? Rồi ông tiếp: "Thực sự chúng tôi chẳng có thời giờ để nghĩ xem chuyện gì đã xảy ra trong quá khứ. Chúng tôi đã rất nỗ lực trong hơn 5 năm qua. Cuộc sống ở bên Đông đã khá hơn rất nhiều, nhưng sao biến đổi một cơ chế khó quá thế?!!"


Có thể kể ngay ra một trong những vấn đề nan giải nhất hiện nay là nạn thất nghiệp. Một loạt nhà máy, xí nghiệp công nghiệp của CHDC Đức, do sản phẩm không còn đáp ứng nhu cầu thị trường của nước Đức mới, khiến hàng loạt công nhân mất việc làm.
Ông W.A. Hausle, một quan chức cao cấp của Bộ Kinh tế Liên bang, làm việc tại văn phòng Berlin cho biết nước CHDC Đức cũ đã bị mất 2 triệu chỗ làm việc. Ông nói: "Chúng tôi cho rằng không cần thiết phải xây dựng thêm những nhà máy công nghiệp ở Đông Đức nữa, bởi vì hàng hoá do các nhà máy bên Tây làm ra cũng đủ dùng cho cả nước Đức rồi".

Ông cho biết năm 1994, tỷ trọng công nghiệp trong kinh tế quốc dân ở Đông Đức là 60%, còn ở Tây Đức là 40%, tính chung cả nước Đức con số đó là 50%. "Như thế là quá nhiều, chúng tôi phấn đấu trong năm nay phải giảm tỷ trọng đó xuống còn 40% trên toàn nước Đức" - ông Hausle nói.


Như vậy có nghĩa là nền công nghiệp Đông Đức tiếp tục bị cắt giảm thêm 20% nữa, có nghĩa là những chỗ làm tiếp tục bị mất đi, dòng người thất nghiệp sẽ tiếp tục tăng lên. Hỏi hỏi ông Hausle người ta làm gì để bù vào chỗ 20% đó. Ông cho biết nước Đức muốn phát triển các ngành dịch vụ. Nhưng ông cũng phải thừa nhận rằng đó là một nghịch lý: Các dịch vụ không thể phát triển được, vì đơn giản là dân chúng không có tiền; tiền chỉ có được khi có một nền kinh tế phát triển mà thôi. Những người thất nghiệp không thể ăn chơi xả láng như những người thừa tiền được.


Ở trụ sở Liên hiệp Công đoàn Đức (Deutscher Gewerkschaftsbund - DGB), ông Dieter Pienkny - người phụ trách báo chí lại nêu ra một con số bi quan hơn: 3 triệu người bị thất nghiệp (những nhà hoạt động công đoàn có thể đi sâu đi sát người lao động hơn, nên có thống kê chính xác hơn). Ông nói, như vậy Công đoàn và Chính phủ đang phải phối hợp cùng lo đào tạo lại nghề cho 3 triệu người đó.

Những phương cách để giải quyết việc làm cho người thất nghiệp, theo ông Pienkny, là khá nửa vời. Tạo ra những chỗ làm hoàn toàn mới là việc không thể được. Năm 1985, người Đức làm việc 40 giờ/tuần. Năm 1995, người Đức làm việc 38 giờ/tuần. Công đoàn đã đấu tranh để cắt giảm số giờ làm việc đó. Và thế là một mũi tên bắn trúng nhiều đích: nghiễm nhiên giới chủ cần thuê thêm 1 triệu người làm việc bù vào. Ông Pienkny nói: "Chúng tôi phấn đấu để chỉ còn phải làm việc 35 giờ /tuần. Hy vọng sẽ có khoảng 1,5 triệu người nữa tìm được việc làm."

Công nhân thất nghiệp đã đành, giới trí thức DDR cũ cũng chịu chung cảnh ngộ. Ông Heussen nói, giới trí thức Đông Đức có mức sống thấp hơn trước khá nhiều. Hệ tư tưởng mới dẫn đến việc thay đổi hệ thống giáo dục và hệ thống bằng cấp. 33% giáo sư theo tư tưởng của chủ nghĩa Mác đã bị mất việc, trong đó 67% là những giáo sư thuộc các ngành khoa học nhân văn.
Không một ai trong số những chánh án cũ còn được ngồi trên vị trí giữ vai trò cầm cán cân công lý trong nước Đức mới.

"Đó thực sự là một tấn bi kịch trong ngành hành pháp và toà án của Đông Đức", ông Heussen nhận xét. Tuy nhiên, các thầy cãi (luật sư) lại ném không hết việc. Rối ren thời cuộc khiến Đông Đức nảy sinh quá nhiều vụ tranh chấp và giới luật sư kiếm bội tiền nhờ sự rối ren đó...

(còn tiếp)


Ghi chú: Bài đăng trên báo Lao Động số 139, ngày 19.11.1995




8/10/09

NOBEL VĂN HỌC 2009 GÂY TRANH CÃI



Herta Mueller, nữ tác giả người Đức còn ít được biết đến, đã đoạt giải Nobel Văn học 2009. Là thành viên trong gia đình thuộc cộng đồng Đức thiểu số ở Romania, bà Mueller được vinh danh vì những tác phẩm “tích tụ thơ ca và sự bộc trực của văn xuôi”, theo nhận xét của Viện Hàn lâm Thụy Điển.

Quyết định bất ngờ trao giải cho bà Mueller đã đổ thêm dầu vào cuộc tranh cãi xung quanh cái gọi là “sự dập khuôn” chỉ trao giải thưởng văn học danh giá cho các nhà văn Châu Âu. Chính bà Mueller cũng không giấu nổi sự ngạc nhiên: “Tôi vô cùng sửng sốt và vẫn còn chưa tin vào điều này. Tôi không thể nói gì hơn vào lúc này” – bà viết trong bản thông cáo do nhà xuất bản của bà tại Đức phát hành.

Peter Englund, Thư ký thường trực của Viện Hàn lâm Thuy Điển, đầu tuần này đã phát biểu với Hãng tin Mỹ AP rằng Viện Hàn lâm Thụy Điển lâu nay vẫn “coi trọng Châu Âu khi lựa chọn người đoạt giải”.

Người tiền nhiệm của ông là Horace Engdahl đã khuấy động tâm tư hai bờ Đại Tây Dương vào năm ngoái khi phát biểu rằng Châu Âu vẫn là trung tâm của thế giới văn chương và rằng chất lượng viết lách ở Mỹ bị xuống cấp bởi các tác giả quá nhạy cảm với những trào lưu của văn hóa đại chúng.

Sau khi tin bà Mueller thắng cuộc được thông báo, ông Engdahl lại nói: “Nếu bạn là người Châu Âu, thì bạn sẽ hiểu biết văn hóa Châu Âu dễ dàng hơn. Đây là kết quả của sự thiên vị trong tâm lý mà chúng tôi đang thực sự muốn biết. Đây không phải là kết quả của bất cứ chương trình nào.”

Mueller, 56 tuổi, bắt đầu viết văn từ năm 1982 với tuyển tập truyện ngắn có nhan đề "Niederungen" (Đất đen), mô tả cuộc sống khó khăn trong một làng nhỏ nói tiếng Đức ở Romania. Tiếp theo, cuốn "Oppressive Tango" (Điệu tango trĩu nặng) bị cấm xuất bản tại Romania vì chỉ trích chế độ của Nicolae Ceausescu.

Mueller, có cha từng làm việc trong bộ máy Waffen SS của phát xít Đức thời Chiến tranh Thế giới II, là nữ văn sĩ thứ 12 và là người Đức thứ 10 đoạt giải Nobel Văn học, sau Guenter Grass năm 1999 Heinrich Boell năm 1972.

Bên cạnh tranh cãi về việc giải Nobel Văn học trong một thập niên gần đây chỉ trao cho các nhà văn Châu Âu, quyết định của Viện Hàn lâm Thụy Điển năm nay còn được bình luận là “chính trị hóa” thời điểm 20 năm tan rã của chủ nghĩa xã hội tại Đông Âu. Mặc dù Viện Hàn lâm Thụy Điển tránh nhắc tới, song Nhà xuất bản Hanser Verlag (Đức) và diễn viên Ion Caramitru - người chống cộng nổi tiếng ở Romania, đều thừa nhận điều đó.

Phần lớn tác phẩm của Mueller đều bằng tiếng Đức, song một số tác phẩm của bà đã được dịch sang tiếng Anh, Pháp và Tây Ban Nha như "The Passport" (Hộ chiếu), "The Land of Green Plums" (Xứ sở mận xanh), "Traveling on One Leg" (Đi bằng một chân) và "The Appointment" (Cuộc hẹn).

Tiểu thuyết mới nhất của Mueller "Atemschaukel" (Hơi thở nhịp nhàng) đã lọt vào chung khảo giải Sách Đức năm nay. Giải thưởng này sẽ được công bố vào thứ Hai tuần tới.

Đây là lần đầu tiên có tới 4 phụ nữ đoạt giải Nobel trong cùng một năm. Các nhà nghiên cứu người Áo tại Mỹ Elizabeth Blackburn và Carol Greider chia sẻ Nobel Y khoa, còn nhà khoa học Israel Ada Yonath có tên trong danh sách các tác giả đoạt Nobel Hóa học.


31/8/08

PHƯƠNG LAUREL MỘT NĂM RƯỠI SAU TAI NẠN



Hơn một năm đã trôi qua kể từ khi tai nạn giao thông tại Đức khiến cô nữ sinh Nguyễn Thị Thu Phương (Phương Laurel) giã từ cuộc sống sinh viên sôi nổi, nằm liệt giường tại bệnh viện Klinik Leezen am Schweriner See Rehabilitatioonsklinik fur Neurologie und Neurochirurgie (Đức).

Hồi tháng 5.2007, thông tin về trường hợp thương tâm này được đưa dầy đặc trên mạng (trong cộng đồng blog cũng như một số hội sinh viên Việt Nam tại nước ngoài).


Tuy nhiên, đến gần đây dường như Phương Laurel đã bị lãng quên.

Hôm qua (30.8), chị Phương (blogger Tóc Dài) cùng con trai đã lặn lội từ 3 giờ sáng đáp chuyến tàu 8 giờ đồng hồ đến bệnh viện hàng đầu về phục hồi thần kinh của Đức để thăm Phương Laurel. Chị Tóc Dài thực sự vui vì tình trạng của Phương đã tiến triển hơn rất nhiều:

- Phương Laurel không còn nằm liệt giường nữa, được đưa ra khỏi khu điều trị cách ly. Các nhân viên y tế đã có thể đặt em lên xe lăn và đẩy em đi dạo trong khuôn viên bệnh viện.

- Phương Laurel có thể giao tiếp với mọi người bằng ánh mắt, nụ cười, những cái gật đầu nhè nhẹ.

- Phương Laurel chưa ăn uống được, dinh dưỡng và thuốc được tiếp qua đường truyền.

- Gương mặt Phương Laurel sáng sủa với nụ cười tươi tắn, chứng tỏ không bị những di chứng nặng nề về thần kinh.

Các nhân viên y tế đã cho phép mẹ con chị Tóc Dài đẩy xe lăn đưa Phương Laurel đi dạo. Các nhân viên y tế quàng hờ một cái khăn xanh quanh cổ Phương Laurel để nước dãi không thấm vào áo, nhưng bằng những động tác rất nhanh, Phương Laurel luôn hất chiếc khăn xuống đất.

Chị Tóc Dài nói đùa: "Á, à, hất nhanh thật. Trêu cô đấy à?". Mắt Phương lộ rõ vẻ sung sướng, vì đã "chơi" được.

Chị Tóc Dài hỏi chuyện với Phương Laurel: "Cháu có nhớ cô không? Cô với em đã có lần đến thăm cháu đấy". Phương Laurel không trả lời. Chị lại hỏi dồn dập: "Còn nhớ cô không, còn nhớ không?". Thật bất ngờ, Phương Laurel thốt ra một tiếng: "Nhơơ!".

Chị Tóc Dài hỏi một số điều nữa và Phương Laurel đã vài lần gật đầu. Mắt Phương còn rơm rớm khi chị Tóc Dài nhắc đến bác Hòa, người đã chăm sóc Phương Laurel từ khi còn bé sau khi cuộc hôn nhân của cha mẹ đổ vỡ.

Sau gần một giờ đi dạo, hai mẹ con chị Tóc Dài đưa Phương Laurel trở lại phòng bệnh. Các nhân viên y tế tỏ ra vui mừng khi hay tin Phương Laurel đã nói được một tiếng. Họ khẳng định đó là dấu hiệu lạc quan cho thấy em có thể hồi phục được.

Các nhân viên y tế cho chị Tóc Dài hay, họ chỉ có thể trò chuyện với Phương Laurel bằng tiếng Đức, thứ ngôn ngữ mà em không thạo lắm. Nếu có người thường xuyên nói chuyện với Phương bằng tiếng Việt, thì em sẽ phục hồi nhanh hơn.

Các nhân viên y tế Đức cho biết thời gian đầu sau khi Phương Laurel gặp nạn, khá nhiều người Việt Nam, chủ yếu là sinh viên ở Đức thay phiên nhau đến thăm em vào những dịp cuối tuần. Nhưng bẵng đi hơn nửa năm nay, không còn ai đến thăm em nữa.

Ngay cả ông bác ruột của Phương, hiện đang sống ở Đức, cũng mới chỉ đến thăm em có một lần.

Phương Laurel đang được điều trị trong những điều kiện rất tốt tại một bệnh viện chuyên ngành hàng đầu của Đức. Nhưng rõ ràng, bên cạnh sự tác động của y khoa, những cuộc trò chuyện bằng tiếng Việt sẽ có tác dụng tích cực giúp Phương phục hồi nhanh chóng.

Phương Laurel không còn nằm ở phòng điều trị cách ly nữa, nên việc đến thăm em không còn bị hạn chế.

Rất mong các bạn sinh viên ở Đức, đặc biệt là Hội Sinh viên Việt Nam tại Hannover nối lại việc đến thăm Phương vào các dịp cuối tuần.

3/6/07

MÙI HƯƠNG ĐÀN BÀ



Bi kịch của một con người được thiên phú khả năng siêu việt về khứu giác, có thể nhận diện được mọi loại mùi, nhưng lại không hề có mùi cơ thể của chính mình.

Với khát khao lưu giữ được những mùi hương độc đáo cho nhân loại, chàng thanh niên Pháp Jean-Baptiste Grenouille đã trở thành kẻ giết người hàng loạt. Nạn nhân của chàng là những cô gái xinh đẹp có mùi hương cơ thể quyến rũ.

Những hành động kinh hoàng được đặt sau một động cơ tốt đẹp. Kẻ sát nhân khi trưng ra thành quả cống hiến của mình đã chinh phục hoàn toàn ngay cả những người thù ghét chàng đến tận xương tuỷ. Họ suy tôn chàng là "thiên thần".

Hình ảnh của phim tuyệt đẹp, cái tài của đạo diễn và nhà quay phim là có thể khiến khán giả cảm nhận được mùi qua từng khuôn hình.

Diễn xuất tài tình của diễn viên vô danh Ben Whishaw mô tả được mọi góc cạnh trong tâm hồn đẹp đẽ (đồng thời cũng bệnh hoạn) và động cơ giết người (trong sáng) của Grenouiille.

Âm nhạc trong phim quả thực là một tác phẩm độc lập có thể trình tấu ở bất cứ phòng hoà nhạc danh tiếng nào của thế giới.

Phim "Perfume: The Story of a Murderer" của đạo diễn Đức Tom Tykwer dựa theo cuốn sách nổi tiếng cùng tên từng được coi là "không thể dựng thành phim được" của nhà văn Patrick Suskind xứng đáng là một trong những bộ phim hay nhất, đáng xem nhất của thập niên đầu tiên trong thế kỷ 21.

Free web counter
 

VMC Copyright © 2009 | Power by Blogger | Template redesigned by Lý Minh Triết