25/8/10

NỖI NIỀM BIỂN ĐÔNG



Nguyên Ngọc

Chính bằng việc đi về Nam, trên con đường đi ngày càng xa về Nam mà trong tâm tình Việt đã có được nỗi niềm biển, nỗi niềm Biển Đông. Cũng không phải ngẫu nhiên mà từ đó, nghĩa là từ đầu thiên niên kỷ thứ hai, với nỗi niềm biển ngày càng thấm sâu trong máu Việt, cha ông ta, người dân Việt, và các Nhà nước Việt liên tục, đã rất sớm khẳng định chủ quyền Việt Nam trên các hải đảo và thềm lục địa của chúng ta.

Mở đầu cuốn Việt Nam văn hóa sử cương, cụ Đào Duy Anh viết: “Khắp một vùng trung châu Bắc Việt, không mẩu đất nào là không có dấu vết thảm đảm kinh dinh của tổ tiên ta để giành quyền sống với vạn vật; suốt một dải Trung Việt vào đến trung châu Nam Việt, không một khúc đường nào là không nhắc lại sự nghiệp gian nan tiến thủ của tổ tiên ta để mở rộng hy vọng cho tương lai”. Thật ngắn gọn, thật súc tích, vị học giả cao kiến đã đúc kết chặt chẽ và cực kỳ chính xác hai chặng đường lớn mấy thiên niên kỷ của dân tộc; và chỉ bằng mấy chữ cô đọng, chỉ ra không thể rõ hơn nữa đặc điểm cơ bản của mỗi chặng, có ý nghĩa không chỉ để nhìn nhận quá khứ, mà còn để suy nghĩ về hôm nay và ngày mai– những suy nghĩ, lạ thay, dường như đang càng ngày càng trở nên nóng bỏng, cấp thiết hơn.

Chặng thứ nhất, tổ tiên ta, từ những rừng núi chật hẹp phía Bắc và Tây Bắc, quyết chí lao xuống chiếm lĩnh hai vùng châu thổ lớn sông Hồng và sông Mã, mênh mông và vô cùng hoang vu, toàn bùn lầy chưa kịp sánh đặc, “thảm đảm kinh dinh để giành quyền sống với vạn vật” – mấy chữ mới thống thiết làm sao – hơn một nghìn năm vật lộn dai dẳng giành giật với sóng nước, với bùn lầy, với bão tố, với thuồng luồng, cá sấu … để từng ngày, từng đêm, từng giờ, vắt khô từng tấc đất, cắm xuống đấy một cây vẹt, một cây mắm, rồi một cây đước, ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác, trăm năm này qua trăm năm khác, khi đất đã được vắt khô, được rửa mặn và ứng đặc, cắm xuống đấy một cây tạo bóng mát, rồi một cây ăn quả, một cây lúa, một mảnh lúa, rồi một đồng lúa …, tạo nên chỗ đứng chân cho từng con người, từng đôi lứa, từng gia đình, rồi từng cộng đồng, từng xóm mạc, từng làng, từng tổng, từng huyện,… cho đến toàn dân tộc, toàn xã hội, lập nên nửa phần là gốc cội của giang sơn ta ngày nay. Và hẳn còn phải nói thêm điều này nữa, cuộc thảm đạm kinh dinh vật lộn với thiên nhiên ấy lại còn phải cộng thêm cuộc vật lộn cũng dai dẳng, quyết liệt, không hề kém can trường và thông minh, để sáng tạo, định hình và gìn giữ một bản sắc Việt riêng giữa trăm Việt, là một Việt độc đáo và đặc sắc, không bị hòa tan bởi một thế lực hung hãn, khổng lồ, luôn muốn xóa bỏ và hòa tan tất cả…

Hơn một thiên niên kỷ thiết lập và trụ vững, tạo nên nền tảng vững bền, để bước sang chặng thứ hai.

Chặng thứ hai, như cụ Đào Duy Anh đã đúc kết cũng thật ngắn gọn và chính xác, “gian nan tiến thủ để mở rộng hy vọng cho tương lai”.

Trên gốc cội ấy rồi, đi về đâu? Chỉ còn một con đường duy nhất: Về Nam.

Có lẽ cũng phải nói rõ điều này: trước hết, khi đã đứng chân được trên châu thổ sông Hồng sông Mã rồi, kháng cự vô cùng dũng cảm và thông minh suốt một nghìn năm để vẫn là một Việt đặc sắc không gì đồng hóa được rồi, thì mối uy hiếp bị thôn tính đến từ phương bắc vẫn thường xuyên và mãi mãi thường trực. Không nối dài được giang sơn cho đến tận Cà Mau và Hà Tiên thì không thể nào Bắc cự. Ở bước đường chiến lược này của dân tộc có cả hai khía cạnh đều hết sức trọng yếu. Khía cạnh thứ nhất: phải tạo được một hậu phương thật sâu thì mới đủ sức và đủ thế linh hoạt để kháng cự với mưu đồ thôn tính thường trực kia. Lịch sử suốt từ Đinh, Lê, Lý, Trần và cả cuộc chiến tuyệt vời của Nguyễn Huệ đã chứng minh càng về sau càng rõ điều đó. Chỉ xin nhắc lại một sự kiện nghe có thể lạ: chỉ vừa chấm dứt được 1.000 năm Bắc thuộc bằng trận đại thắng của Ngô Quyền, thì Lê Hoàn đã có trận đánh sâu về phương Nam đến tận Indrapura tức Đồng Dương, Nam sông Thu Bồn của Quảng Nam. Đủ biết cha ông ta đã tính toán sớm và sâu về vai trò của phương Nam trong thế trận tất yếu phải đứng vững lâu dài của dân tộc trước phương Bắc như thế nào.

Khía cạnh thứ hai vừa gắn chặt với khía cạnh thứ nhất, vừa là một “bước tiến thủ” mới “mở rộng hy vọng cho tương lai”, như cách nói sâu sắc của cụ Đào Duy Anh. Bởi có một triết lý thấu suốt: chỉ có thể giữ bằng cách mở, giữ để mà mở, mở để mà giữ. Phải mở rộng hy vọng cho tương lai thì mới có thể tồn tại. Tồn tại bao giờ cũng có nghĩa là phát triển. Đi về Nam là phát triển. Là mở.

Không chỉ mở đất đai. Càng quan trọng hơn nhiều là mở tầm nhìn. Có thể nói, suốt một thiên niên kỷ trước, do cuộc thảm đảm kinh dinh để giành giật sự sống với vạn vật còn quá vật vã gian nan, mà người Việt chủ yếu mới cắm cúi nhìn xuống đất, giành thêm được một một mẩu đất là thêm được một mẩu sống còn. Bây giờ đã khác. Đã có 1000 năm lịch sử để chuẩn bị, đã có thời gian và vô số thử thách để tạo được một bản lĩnh, đã có trước mặt một không gian thoáng đãng để không chỉ nhìn xa mãi về Nam, mà là nhìn ra bốn hướng. Nhìn ra biển. Phát hiện ra biển, biển một bên và ta một bên, mà lâu nay ta chưa có thể toàn tâm chú ý đến. Hay thay và cũng tuyệt thay, đi về Nam, người Việt lại cũng đồng thời nhìn ra biển, nhận ra biển, nhận ra không gian sống mới, không gian sinh tồn và phát triển mới mênh mông của mình.


Đi về Nam, chúng ta có một may mắn lịch sử rất lớn: tiếp nhận không gian Champa, chúng ta đã tiếp nhận được rất nhiều của truyền thống và văn hóa Chàm, và cả trước đó nữa, truyền thống và văn hóa Sa Huỳnh. Thậm chí cũng có thể nói, tiếp nhận Champa – sau này cả vùng sông nước Cửu Long rộng giàu – người Việt, Quốc gia Việt, đã tự nhân đôi được mình lên, không chỉ về lãnh thổ, mà cả về tính cách, về bản lĩnh, về sức sống và sức phát triển. Champa là một quốc gia biển. Thế giới của chúng ta đã được tạo hóa “thu xếp” một cách tuyệt vời: Biển ngăn cách, nhưng biển cũng là nối liền và chủ yếu là nối liền. Từ rất xa xưa, qua biển lớn, những đoàn thuyền buôn Champa đã từng giong buồm đến những vùng rất xa xôi, không chỉ ở Đông Nam Á, Nam Á, mà cả Trung Đông, Địa Trung Hải, tới cả thế giới Ả Rập; và cũng đã tiếp nhận thuyền bè đến từ khắp thế giới rộng mở ấy. Hẳn Champa đã tiếp nối và phát triển một truyền thống xa hơn của cư dân văn hóa Sa Huỳnh. Và người Việt đi vào Nam đã nối tiếp truyền thống này. Nếu ở miền Bắc, người đi ra biển trước đây chỉ biết biết dùng những chiếc mảng thô sơ ghép bằng nhiều cây tre, thì đi vào Nam người Việt đã rất nhanh chóng tiếp thu kỹ thuật đóng và sử dụng ghe bầu lớn của người Chàm để đi biển xa (thậm chí, như chúng ta biết, trong trận đánh Thăng Long năm 1789, Nguyễn Huệ đã sử dụng tượng binh gồm voi Bình Định và Gia Lai được chở ra bằng ghe bầu lớn). Nếu ở phía Bắc, ẩm thực nước chấm chủ yếu dùng tương, thì đi vào Nam người Việt đã học được văn hóa nước mắm của người Chàm, là cách chế biến cá hay nhất, hiệu quả nhất …

Chính trên cơ sở tư duy mới rộng mở ấy, đặc biệt trong thời các chúa Nguyễn, tầm nhìn ra biển đã đưa đến một chuyển biến vô cùng quan trọng, thậm chí có thể coi là một bước ngoặt có tính quyết định trong lịch sử Việt Nam: biết nhìn ra biển lớn, tức cũng là biết nhìn ra toàn thế giới – điều mà ngày nay ta gọi là một “tư duy về toàn cầu hóa” – Thời các chúa Nguyễn ở Đàng Trong, tức miền Nam đất nước, đã tạo ra được một thay đổi cơ bản về cơ cấu kinh tế, chuyển từ kinh tế thuần nông truyền thống sang cơ cầu kinh tế lấy thương nghiệp làm chính, trong đó ngoại thương giữ vai trò trọng yếu. Nhà nghiên cứu lịch sử Cao Tự Thanh đã có nhận định chính xác và sắc sảo: chính cơ cấu kinh tế mới này đã tạo nên điều mà ông gọi là một “động lực lịch sử” kỳ lạ và kỳ diệu, khiến nếu từ Đèo Ngang đến đèo Ải Vân cha ông ta đã phải đi mất 600 năm, thì từ đèo Ải Vân đến Hà Tiên ta chỉ phải mất có 200 năm, mà lại chỉ đi bằng lưỡi phạng chứ không phải lưỡi kiếm …

Vậy quả thật nỗi niềm biển là nỗi niềm lớn của dân tộc, của mỗi người Việt, nó liên quan mật thiết đến số phận dân tộc, sự tồn vong và phát triển của dân tộc.

Cũng không thể không nói rằng, khi thời các chúa Nguyễn suy tàn, đến thời các vua Nguyễn, thì chính sự phai nhạt tư duy mạnh mẽ về biển, chính sách đóng cửa, là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất đưa đến mất nước.
***
Không có tư duy biển, không có tư duy rõ ràng, mạnh mẽ về Biển Đông trực tiếp của ta, là nguy cơ dân tộc.

Như chúng ta biết, năm 1949 Ấn Độ thoát khỏi ách thuộc địa của đế quốc Anh. Có độc lập rồi, chọn con đường phát triển nào đây? Mâhâtma Gandhi, lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Ấn, cũng là bậc hiền triết lớn của nhân loại, lúc bấy giờ có đặt ra một câu hỏi, hóa ra sẽ là câu hỏi lớn và lâu dài của thế giới và của từng dân tộc. Ông nói: Nước Anh chỉ là một đảo quốc nhỏ, dân số ít, vì sao đã trở thành một đế quốc giàu có, lớn mạnh đến vậy? Ấy là vì nước Anh đã tiêu xài hết một nửa tài nguyên của Trái đất. Vậy bây giờ nếu Ấn Độ với quy mô và dân số khổng lồ như thế này, cũng chọn con đường phát triển như nước Anh, thì liệu phải có bao nhiêu Trái đất mới đủ? …

Đúng 60 năm qua từ câu hỏi hiền minh mà cháy bỏng của thánh Gandhi, ngày nay các khoa học đã có thể tính toán và trả lời chính xác: Ấn Độ sẽ cần có 5 Trái đất chỉ để riêng cho mình nếu đi theo con đường phát triển mà nước Anh đã đi.

Chúng ta chỉ có một Trái đất. Tiêu xài tài nguyên của tạo hóa ban cho trên trái đất duy nhất này như thế nào đây là vấn đề sống còn của nhân loại.

Chắc chắn mỗi chúng ta đều biết có một đất nước còn khổng lồ hơn cả Ấn Độ đang lao vào cuộc chạy đua ghê gớm để tiến lên đoạt vị trí hàng đầu thế giới. Và đang đi theo con đường của Anh, ráo riết làm chủ tài nguyên khắp thế giới cho tham vọng của mình, thậm chí, như chúng ta có thể thấy, đang và sẽ tiêu xài tặng vật của tạo hóa một cách dữ dội, hoang dã hơn nhiều so với các đế quốc trước. Tôi nghĩ cần nói rõ rằng quả thật có một hiểm họa toàn cầu đang hình thành.

Nói về nỗi niềm biển, nổi niềm Biển Đông, tất không thể không suy nghĩ về điều đó. Biển là tài nguyên, biển cũng là giao thông huyết mạch để vận chuyển tài nguyên. Biển Đông, trong đó có phần chủ quyền thiêng liêng của chúng ta, được truyền lại từ bao nghìn năm “thảm đạm kinh dinh” và “gian nan tiến thủ” của cha ông, đang đứng trước thách thức về cả mặt tài nguyên lẫn đường giao thương tài nguyên ấy. Nỗi niềm Biển Đông của chúng ta, mỗi chúng ta, trước hết là nhận thức cho rõ ràng, thống thiết, quyết liệt về thách thức đó. Và từ đó, hành động.

Nguồn:
NỖI NIỀM BIỂN ĐÔNG - TẠP CHÍ TIA SÁNG

Entries liên quan:
CÂU CHUYỆN CÁI LƯỠI BÒ
TÀI LIỆU QUÝ KHẲNG ĐỊNH CHỦ QUYỀN CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI TRƯỜNG SA VÀ HOÀNG SA
TỔ QUỐC BẮT ĐẦU TỪ ĐÂU?


11 comments:

LU on lúc 23:21 25 tháng 8, 2010 nói...

ha ha, lại thêm một bài "hàn lâm" nữa. Nhưng mờ em thích đọc mấy cái đề tài khô khan này...em thì chỉ khoái khẩu mí đề tài kỹ thuật, kinh tế, và lịch sử cổ only :))

MHTL on lúc 00:54 26 tháng 8, 2010 nói...

"...Nỗi niềm Biển Đông của chúng ta, mỗi chúng ta, trước hết là nhận thức cho rõ ràng, thống thiết, quyết liệt về thách thức đó. Và từ đó, hành động."

- Chưa hiểu ý của tác giả NN? Oánh nhau với Tàu để giành lại HS đã mất từ 1974 chăng? Nhờ người M gây sức ép giúp chăng?... Tất cả đã quá muộn, rất muộn rồi.

- Cơ hội lịch sử chẳng khác gì như tia chớp, đến cực nhanh, biến mất cực nhanh, đòi hỏi VN phải xử lý cực nhanh, nhạy, quyết đoán, với tầm nhìn xa quá nhà bếp, khi Nga rút khỏi quân cảng Cam Ranh. Ta có xử lý đâu, bây giờ tất cả nuối tiếc, than trách, giá mà...

Titi on lúc 09:19 26 tháng 8, 2010 nói...

Dân tộc nào cũng có niềm tự hào vô bờ về mình. Những gì làm được trong hàng ngàn năm qua không phải chỉ 1 mình VN mới có. Những hy sinh, mất mát không chỉ mình dân tộc VN phải chịu. Lịch sử đất đai luôn là đề tài nhạy cảm và có thể bùng phát bất cứ lúc nào và gây nên chiến tranh tương tàn.

Thiết nghĩ, những lời thống thiết này liệu có tác động nổi vào lối tư duy vật chất tranh cướp đang tràn ngập tổ quốc ta?

Lana on lúc 09:52 26 tháng 8, 2010 nói...

Mọi người ơi, thật sự là những người đứng đầu nước mình đã và đang cố gắng lắm để giữ biển giữ trời đấy. Phải khéo léo là vì cái thằng hàng xóm nó vừa tham vừa mạnh vừa gian. Thật chẳng hề dễ dàng. Mọi người xâu chuỗi nhé:
Việc ra nhập ASEAN, việc đẩy mạnh ngoại giao với khu vực (sau khi anh lớn LX sụp đổ);
Các chương trình trên Media về đảo, về chiến sĩ ngoài đảo những năm gần đây;
Chương trình cắm lại cột mốc, thỏa thuận vùng trời...
Việc tàu HQ Mỹ ghé cảng Đà Nẵng (không chỉ một lần)...

Tất cả là sự nghĩ suy đường lối đấy, rất không dễ dàng, mọi người đừng chỉ chê trách một chiều.

Thật ra việc đưa thông tin cũng có thay đổi nhưng chưa thể mở hết đến dân có lẽ vì phải tính kỹ, kẻo không lại thành chọc tức cái 'bãi thúi', thúi thêm (định nói chọc tổ ong, nhưng ghét quá, dùng từ bãi thúi).

LU on lúc 10:22 26 tháng 8, 2010 nói...

Có mỗi dãi đất bé tẹo hình chủ S mà quanh năm ko thấy yên ổn chi cả.
Hết lụt lội rồi lại đến tranh giành đất. Hôm 8/18 đài báo bên đây loan tin tàu Mỹ đóng ngoài khơi biển đông và nói rằng chỉ cần VN lên tiếng yêu cầu giúp đở thì 15 phút sau tàu Mỹ sẽ có mặt ngay. Trên tàu thì toàn là vủ khí, em nghe news thì lại cứ thấy VN bắt đầu ko yên.

PTN on lúc 11:03 26 tháng 8, 2010 nói...

Úi ! Vừa đọc "hàn lâm" vừa được nghe nhạc thấy nhẹ nhàng bao nhiêu !

Lana on lúc 12:09 26 tháng 8, 2010 nói...

Úi, thấy em PTN qua đây, mà bài này rõ dài, túm tay nào :)

Thái Anh on lúc 14:06 26 tháng 8, 2010 nói...

"Những ngôi mộ hiện hình trên biển

Biển mênh mông nên mộ chòng chành

Các anh nằm bốn bề biển gọi

Nước vây quanh sóng gió mặn mòi"...

Phải nhớ để mà giữ chứ!

MHTL on lúc 14:09 26 tháng 8, 2010 nói...

Diện tích VN gấp 3 lần Hàn Quốc. HQ cũng sát nách TQ. Nhưng VN chưa có 1 người như Lee Myung-bak, không phải giỏi, mà siêu giỏi, với những góc nhìn chiến lược xa kinh khủng.

Thôi, đành bật bài Ru em ngủ ngàn năm, và đọc A.Q vậy.

Thuy Dam Minh on lúc 14:52 26 tháng 8, 2010 nói...

Cuộc chiến giữ biển Đông của mình chắc là còn lâu dài lắm!

MHTL on lúc 15:08 26 tháng 8, 2010 nói...

Có bao giờ mình muốn xử dụng hải cảng nằm rất sâu trong đất của mình (cảng CR) lại phải lắng nghe ý kiến của 1 thằng cách xa cả gần 1000 km ko?

Nghe có vẻ vô lý, quá vô lý, nhưng rất tiếc lại là...

Đăng nhận xét

 

VMC Copyright © 2009 | Power by Blogger | Template redesigned by Lý Minh Triết